IV. Đóng góp của thơ Nguyễn Quang Thiều
IV.1. Có hay không một “chủ nghĩa thơ hiện đại Việt Nam”?
Trong thế kỷ qua, bảng giá trị của
các chủ nghĩa hiện đại trong thơ, trong văn học thế giới trên căn bản được phủ
sắc màu Âu - Mỹ. (Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh là một hy hữu, nhưng
có thể chỉ là phần nổi của tảng băng các khuynh hướng văn học ngoài Âu - Mỹ).
Thực ra, chúng tôi thấy, đã tồn tại
một thực thể thi ca, tạm gọi là, Chủ nghĩa thơ hiện đại Việt Nam có phần sáng
tác đủ chất lượng nghệ thuật và tầm vóc về số lượng. Tiếc là phần lý thuyết còn
ở trong… đầu các nhà lý luận và nghiên cứu: Với người Việt, chúng ta vốn không
có sở trường tự lập thuyết và tự giải mã lý thuyết cho mình; Với người ngoại
quốc: thơ Việt chưa đến lúc lọt tầm khảo cứu lý thuyết của thế giới.
Về sáng tác, có ít nhất ba điều tạo
nên cái gọi là Chủ nghĩa thơ hiện đại Việt Nam. Một: Thi ca Việt đã có cuộc
cách mạng ngoạn mục bằng thời kỳ Thơ mới với đầy đủ các tiêu chuẩn; Hai: Các
dòng thơ cách mạng, thơ chiến tranh Việt Nam 1945-1975 và thơ hậu chiến
1975-1986, trong đó có dòng trường ca chiến tranh, đã ảnh hưởng không nhỏ đến
sự tồn vong của dân tộc và nền độc lập của tổ quốc. Cuộc sống cảm xúc Việt
trong những thời kỳ đó không chỉ mang giá trị tinh thần và tư tưởng mà còn có ý
nghĩa vật chất và thực tế; Ba: Dòng thơ miền Nam 1954-1975 hòa trong văn học và
văn hóa miền Nam vừa mang tinh thần Việt vừa có không khí của thế giới đương
thời.
Hầu như không có lãnh vực nào của
văn học và nghệ thuật Việt Nam được thành tựu vậy. Lúc này, khó có thể nghĩ tới
chủ nghĩa hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam! Với điện ảnh hoặc hội họa Việt
Nam càng không thể! Đâu phải vì thi sĩ Việt “giỏi” hơn văn sĩ, họa sĩ hay các
điện ảnh gia Việt? Mà, vì thơ là loại hình nghệ thuật mang bản sắc dân tộc hơn
hết thảy; vì người Việt đại chúng rất say mê thơ và do đó toàn xã hội Việt Nam
dễ được/bị thơ chinh phục khi cần; vì thơ là nghệ thuật ngôn từ và chữ quốc ngữ
ngay khi vừa làm chủ đời sống tinh thần Việt đã kéo theo cuộc cách mạng thơ –
thay đổi toàn bộ hệ thi pháp của cả mấy ngàn năm thơ Việt.
Thơ Nguyễn Quang Thiều có gần đủ các
yếu tố để dự phần vào cái gọi là Chủ nghĩa thơ hiện đại Việt Nam, ở cả sáng tác
và “lý thuyết” (dù khuynh hướng sáng tạo này có được gọi tên hay không). Tức
là, có thể chọn các trang thơ ấy như “ống nhòm” để quan sát bầu trời thơ Việt,
ít nhất từ sau 1975.
IV.2. Thi pháp Nguyễn Quang Thiều
trên các bậc thang thơ Việt
Với thơ Nguyễn Quang Thiều, thi pháp
đồng nghĩa với ngôn ngữ. Phần V. sẽ bàn chi tiết về nghệ thuật thơ này. Cũng
như thi pháp thơ Thanh Tâm Tuyền, thật ra thi pháp thơ Nguyễn Quang Thiều
rất…mạo hiểm. Với các tác giả khác, nó tạo cảm hứng thay đổi cách viết. Chịu
ảnh hưởng của nó về kỹ thuật, thủ pháp thì tốt, nhưng khó đeo đuổi như một thi
pháp. Thành bại dễ thấy ngay trong một vài bài. Có thể thấy vậy qua ngôn ngữ
thơ Nguyễn Quyến, Phan Hoàng, Đinh Thị Như Thúy; theo thể tài thơ văn xuôi của
Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn; với hình ảnh thơ Nguyễn Lương Ngọc, Phan Huyền
Thư, Nguyễn Bình Phương; ở nhịp điệu thơ Vi Thùy Linh, Phan Tường Vân, Đỗ Doãn
Phương. Chuỗi tác giả đó, mỗi người mỗi phong cách - giọng điệu khác biệt, và
không ai tạo thi pháp mới như/với Nguyễn Quang Thiều.
Thế nhưng hoàn toàn có thể nói, về
giao lưu sáng tác và quan hệ văn hữu, khối tác giả này đã hình thành một trường
phái văn chương vô danh bất tuyên ngôn phi thủ lĩnh, và nếu muốn, tại đây xin
gọi là “Trường phái” Nguyễn Quang Thiều. (Nhiều tháng nay, “ăn theo” một giải
thưởng, đã thành quen thuộc cách gọi Các nhà thơ Làng Chùa, cũng là theo tập
hợp Các nhà thơ trẻ xứ Đoài trong hai thập niên qua).
Thật ra, trong nghề và nghiệp thơ,
rất hiếm tác giả có thi pháp riêng; tức là có phương-pháp-làm-thơ mới và riêng xuất
phát từ quan-niệm-về-thơ mới và riêng. Cũng không nên thơ mộng hóa vấn đề thi
pháp. Có thể tạm ví, nhà thơ có thi pháp như một nhà khoa học có bằng tiến sĩ
mà thôi. Đó là bằng cấp của học vấn chứ không phải bằng cấp của tài năng; càng
không phải bằng cấp của thành tựu.
Có những nhà thơ có thi pháp mới,
rất mới và rất riêng; nhưng có thể mãi mãi là cách thể nghiệm, một qui trình
“chế tạo thơ”. Như các thi pháp của Khải Minh, Nguyễn Tôn Hiệt, Đặng Thân: chỉ
tạo ra các bài-thơ, chưa thành thơ như một hình thái.
Các thi pháp của Trần Dần, Đặng Đình
Hưng, Dương Tường, Nguyễn Thúy Hằng đã tạo thành tác phẩm nhưng chất thể nghiệm
vẫn là hồn cốt. Đang nói ở đây nhiều lần về hai chữ “cách tân”, hãy cùng Dương
Tường xác quyết thêm một lần: Trần Dần là nhà cách tân số 1 của thi ca
hiện đại Việt Nam!
Có những thi sĩ kiệt xuất mà như
không tạo dấu ấn thực sự của thi pháp: Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Vũ
Hoàng Chương, và cả Hoàng Cầm rồi Tô Thùy Yên nữa. Đến như Tố Hữu cũng không
làm thi sĩ của thi pháp, dù đó là tác giả từng trở thành nguồn cảm hứng và đối
tượng nghiên cứu cho phương pháp luận của GS Trần Đình Sử về thi pháp học có
thể nói là đầu tiên của lý luận và học thuật văn học Việt Nam từ Thơ mới tới
nay.
Có thi pháp thơ Chế Lan Viên. Suýt
có thi pháp thơ Nguyễn Đình Thi; nhưng may quá có thi pháp thơ Thanh Tâm Tuyền
nối tiếp. Nguyễn Bính là “ca” rất lạ: Nói có, không đúng; nói không, sai; thôi
thì nói như Thụy Khuê: thi pháp Nguyễn Bính là không thi pháp. Và không thể
quên điều này: Thi pháp thơ Bùi Giáng! Không tính đến “thi pháp thơ Bút Tre”,
“thi pháp thơ Xuân Sách”, vì ở đây chỉ là về thơ trữ tình và thơ nghiêm túc.
Lại có một số vị “đi hàng hai” của
thi pháp: Nguyên Sa, Đinh Hùng, Bích Khê, Du Tử Lê, Thường Quán, Đỗ Kh., Nguyễn
Quốc Chánh, Lưu Hy Lạc, Mai Văn Phấn, Đinh Linh, Nguyễn Đức Tùng…
Có mảng sáng rực của thơ Việt hiện
đại sau Thơ mới nhờ không ít tác giả đã làm rung chuyển thi pháp thơ trường ca
và ít nhiều thành công cả về thể loại lẫn tư duy trường ca: Nguyễn Quang Thiều
cũng trong số này, cùng Trần Dần, Thu Bồn, Thanh Thảo, Cao Đông Khánh - và nhất
là ở dòng trường ca hậu chiến - Trần Nhuận Minh, Trần Anh Thái, Nguyễn Linh
Khiếu, Tam Lệ, Lê Vĩnh Tài… (Xem tiếp phần VI.)
Không kể phong trào Thơ mới như một
chuyển động xã hội, thơ Việt Nam dường như chỉ có năm nhóm văn nghệ, trường
phái tạo ra hoặc liên hệ tới thi pháp : Xuân Thu Nhã Tập (Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn
Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh…), Nhóm thơ Bình Định/ trường thơ Loạn (Quách Tấn, Hàn
Mạc Tử, Yến Lan và Chế Lan Viên), Nhóm Dạ Đài (Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ
Hoàng Địch), Thơ tân hình thức Việt (Khế Iêm, Đỗ Kh., Nguyễn Đăng Thường,
v.v…), và Nhóm Mở Miệng (Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy và Nguyễn Quán). Không kể
Nhóm thơ Bình Định, bốn nhóm phái còn lại đều có cao vọng - và ít nhiều đã thực
hiện - ra khỏi thi pháp Thơ mới.
Thời chiến tranh chống Mỹ, các nhà
thơ xuất sắc trưởng thành trong và ngoài quân đội bằng những giọng điệu riêng
tạo nên dàn đồng ca của thi pháp thơ cách mạng và hiện thực XHCN. Từng thi sĩ -
Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Trần Mạnh
Hảo, Thi Hoàng, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt… - khó có thể có thi pháp
riêng, bởi với mỗi người và với tất cả, chiến tranh là thi ca, cách mạng là thi
pháp!
Tóm lại, thi pháp Thơ mới trong cuộc
cách mạng lần thứ nhất đã lật lịch sử thi ca Việt Nam sang “chương hai”, từ ý
niệm thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật thời trung đại sang quan điểm hiện đại cùng
các nền thơ khác trên thế giới. Từ đó tới nay, cuộc cách tân thơ Việt về thi
pháp với những đại biểu, theo thứ tự và thành tựu là:
1. Nguyễn Đình Thi (1946; tiên
phong, dang dở);
2. Thanh Tâm Tuyền (1955; ảnh hưởng
lớn, hiệu quả);
3. Trần Dần (1963; ảnh hưởng lớn,
thể nghiệm);
4. Nguyễn Quang Thiều (1992; ảnh
hưởng đáng kể, còn tiếp tục);
5. Thơ tân hình thức Việt (2000; ảnh
hưởng đáng kể, còn tiếp tục);
6. Nhóm Mở Miệng (2001; ảnh hưởng
giới hạn; tiếng tăm, tai tiếng ở các vấn đề ngoài thơ).
Nhân đây, xin trình bày lại hành
trình sáng tác theo bốn bậc thang đẳng thức thơ:
1. Cách mạng (Cải cách)
thơ
= Văn hóa (Thời đại) mới + Chủ nghĩa (Triết thuyết) mới
2. Cách tân (tiên phong, mở đường)
thơ = Thi pháp (Khuynh hướng) mới
3. Đổi mới
thơ
= Bút pháp mới
4. Sáng tạo
thơ
= Phong cách (Thủ pháp) mới
IV.3. Cách tân thủy chung và thấu
suốt
Nếu như thơ Mai Văn Phấn cách tân
nương theo mọi nẻo đường thì thơ Nguyễn Quang Thiều là độc đạo và thẳng tắp.
Loại thơ-đọc-một-lần là vậy! Nếu như thơ cách tân Mai Văn Phấn ít bị phản ứng
mạnh thì thơ Nguyễn Quang Thiều đã và đang bị như với không ít tác giả mở đường
khác. Loại thơ-cho-các-nhà-phê-bình là vậy. “Thi án cách tân Nguyễn Quang
Thiều” kéo dài đã hai mươi năm: Hơn cả thơ Thanh Tâm Tuyền. Nhưng khoảng mươi
năm nay (tạm lấy mốc 2001-2002 hình thành văn học mạng ở Việt Nam), Nguyễn
Quang Thiều cũng có thể nói: “Tôi không còn cô độc”, với chừng 30 tác giả hậu
Đổi mới tạo nên một trào lưu cách tân thơ Việt trên cả hai khuynh hướng hiện
đại và hậu hiện đại, với sự “nổi loạn nghệ thuật” nội dung và tư duy, hình thức
và thái độ, hơn hẳn thời Nhóm Sáng Tạo và Nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm. Đến thời
điểm này, ngọn cờ tiên phong đang phần phật trên hai, ba tá bàn phím mà 18 vị
thuộc về danh sách khả tín của Inrasara , chứ không chỉ ở đôi ba tay bút (Dương
Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương) trong thời đầu của thế hệ
Đổi mới 1986-2000.
Thế hệ này có nhiều cơ may về thiên
thời – địa lợi (chính trị, văn hóa và văn học Việt Nam và quốc tế) cho khát
vọng cải cách thi pháp truyền thống và phong cách anh hùng ca thuần túy của thơ
chiến tranh. Về tài năng cá nhân, tác giả này cũng như đã tận dụng sự may mắn
trời cho và vị thế nghề nghiệp. Anh tỏ ra hiểu điều kiện cần cho những cải cách
văn nghệ là khách quan quyết định: Phải do thúc bách chung cả xã hội; Và với
thơ cần sự đồng hành của cải cách ngôn ngữ và và văn hóa. Không giống đa số tác
giả khác, Nguyễn Quang Thiều cùng hai người - trước vài năm là Dương Kiều Minh,
sau dăm năm là Mai Văn Phấn – đã không lấy nội dung thời cuộc làm “thi pháp mới”.
Họ không chủ trương “nói cái từng không được nói”, mà là nói cái muôn thuở bằng
ngôn ngữ chưa được/biết nói.
Khác Trần Dần và Thanh Tâm Tuyền;
Nguyễn Quang Thiều không quấy đảo quan niệm thẩm mỹ quen thuộc. Khác Đặng Đình
Hưng và Dương Tường; Nguyễn Quang Thiều không “cầm đèn” cách tân chạy trước
“ôtô thơ”. Biến động trong thi pháp thơ của anh - dù có những lớp độc giả không
chấp nhận – cho thấy tác giả đã làm thơ trước - cách tân sau. Trong danh sách
sáu đại biểu cách tân nêu trên, Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Quang Thiều là hai
nhà cách tân hồn nhiên với quan hệ nội dung và hình thức không quá căng thẳng
như các vị khác.
Rất nhiều bài thơ, tập thơ và trường
ca của Nguyễn Quang Thiều hòa trộn cả ba phong cách truyền thống, hiện đại và
hậu hiện đại: Ngay từ năm 1994, bài Thánh ca tĩnh lặng (tr. 130, Châu thổ) đã
là một ví dụ vượt thời gian.
IV.3.1. Về quan niệm thẩm mỹ, thơ
Nguyễn Quang Thiều kích nâng nền mỹ học truyền thống lên với tư duy và hiện
thực hiện đại nhưng vẫn bảo toàn tính chất của nó. Có thể nói Nguyễn Quang
Thiều là một thi sĩ nhân bản chủ nghĩa với lý tưởng thẩm mỹ của cái Tôi thời
hiện đại. Như thế, thi pháp thơ này khó có thể phóng túng theo các trường phái
hiện đại mang hệ mỹ học mới, như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa siêu thực; và
cũng khó cố thủ cùng các chủ nghĩa lãng mạn hay hiện thực đơn điệu. Cũng nhờ
thế, Nguyễn Quang Thiều không phải “loay hoay suốt hai thập niên” kiểu Mai Văn
Phấn (trích Inrasara). Anh miệt mài trên thi pháp độc đạo của mình.
Ở thơ này, cái Đẹp nhiều khi pha đậm
với cái Bi, làm nên cái Cao cả. Cái Đẹp trong thiên nhiên quyết định cái Đẹp
trong nghệ thuật và trong xã hội - đó là mỹ quan Nguyễn Quang Thiều. Cái Hùng
gần như không có. Làng thơ Việt vốn dĩ “cả làng hùng ca”, thơ Nguyễn Quang
Thiều “lạc e” (air) về khoản này. Lại khó hơn thơ Dương Kiều Minh về cú pháp
thơ. Tức là khó đơn khó kép. Cái Hài cũng không thấy ở thơ Nguyễn Quang Thiều.
Thể tất được, vì đây là của hiếm trong mỹ cảm thơ Việt suốt từ Thơ mới tới thời
Đổi mới. Nhưng không có thái độ phúng dụ, biếm hài kết hợp Đông - Tây như Thanh
Thảo và Nguyễn Đức Tùng; Bùi Chát và Đặng Thân; không có cái tự trào, vui tếu
Đông phương mang Việt tính như Trần Nhuận Minh và Nguyễn Trọng Tạo; Phạm Công
Trứ và Nguyễn Anh Nông; thơ Nguyễn Quang Thiều về mỹ quan chưa sẵn sàng với
điều kiện hậu hiện đại. (Xem tiếp phần IV.4.)
IV.3.2. Về cảm hứng chủ đạo và nhân
vật trữ tình, cái Tôi của thơ Nguyễn Quang Thiều đã dự phần làm cho nền thơ
cách mạng và hiện thực XNCH sau chiến tranh ra khỏi cái Ta và khác cái Tôi chủ
nghĩa cá nhân của Thơ mới. Cũng khác cái Tôi hiện sinh chủ nghĩa của thơ miền
Nam. Đó là cái Tôi của chủ nghĩa nhân đạo trong một xã hội hiện đại thời bình
đầy bất trắc và một nông thôn bị đô thị hóa gấp gối.
Thanh Tâm Tuyền và Nguyễn Quang
Thiều là “cách tân từ cách tâm” (trích Hoàng Hưng). Đặng Đình Hưng và Dương
Tường: cách tân từ cách trí? Trần Dần thì cách tân cả tâm lẫn trí.
Vẻ ngoài rậm tạp, thơ Nguyễn Quang
Thiều tương phản với hình dáng đơn sơ ở thơ Nguyễn Đình Thi, mà lại giống
ở cảm xúc “đa nguyên – dân chủ” trong việc dẫn dắt thơ tự do. Thơ Trần Dần độc
đáo cũng vì sự độc đoán duy lý và tuyến tính. Người đọc phải chịu trận dưới
chân tường tư duy mà ngước lên. Thơ hay là Chết! Nói như Phạm Thị Hoài, tác giả
đánh đồng nhân cách (cái Tôi thi sĩ) và văn cách (thi pháp). Có thể vì chịu
cuộc đời khốc liệt. Có thể thi pháp đó thuộc về máu thịt. Có thể do cả hai.
Thiển nghĩ, vì Trần tiên sinh không dựa lên một triết luận chắc chắn hoặc thích
đáng, trong khi mà phía Nam, cùng khoảng thời gian đó Thanh Tâm Tuyền nhờ triết
lý hiện sinh và các phương pháp ẩn dụ hiện đại của nhiều trường phái thi ca
phương Tây khiến cảm giác thơ mạnh bạo mà vẫn không nhất nguyên. Kỳ khu là
ngữ-pháp-thơ-BaTê: trúc trắc so với ngữ pháp thơ thông thường nhưng không bạo
lực đánh thuốc mê (kiểu Xuân Thu Nhã Tập) mà ma thuật bỏ bùa người đọc. Dù cùng
trên nền tư tưởng phương Đông ảnh hưởng của cảm hứng trữ tình trong cái Tôi của
chủ nghĩa cá nhân phương Tây, nhưng triết học và mỹ học thơ Nguyễn Đình Thi rất
khác ở các thi sĩ Thơ mới khiến Đỗ Minh Tuấn từng dè dặt đặt tên - “cái vô
ngôn, cái tính Không trong thi pháp” . Một tâm sự của nhà thơ rất có ý nghĩa:
“(…) hồi xưa tôi ít đọc Thơ mới, tôi thích triết học hơn. Khi đọc thơ hiện đại
của thế giới, tôi thấy nó có cách viết rất tự nhiên và thế là tôi cầm bút viết
những dòng thơ không vần như trôi theo dòng tình cảm tự nhiên nó đến.”
Nếu như thơ Nguyễn Quang Thiều có cơ
sở triết học thay cho tư tưởng nhân sinh (được hiểu như là ý đồ tải đạo), tin
rằng thơ này sẽ bớt “rậm” và thành tựu một cách dứt khoát. Nếu như người thơ
Nguyễn Quang Thiều được nén xuống, nén xuống nữa cái nợ kiếp người do bác mẹ
sinh thành, với làng Chùa “cát từ mặt… chảy xuống ròng ròng” (Sông Đáy) tin
rằng thơ này nhi nhiên và đi đến đông đảo bạn đọc hơn.
Thơ tự do không vần Nguyễn Đình Thi
nhẹ ngoài nặng trong, thư thái và sâu thẳm; tức là bảo toàn chất nhi nhiên mà
thơ cổ điển niêm luật đã tạo qua hàng ngàn năm. Làm thơ vì chính trị, nhưng
Nguyễn Đình Thi không có chính-trị-của-thơ trong thi pháp. Thơ Trần Dần và thơ
Thanh Tâm Tuyền chống chính trị hóa trong thơ bằng chính-trị-của-thơ. Thơ
Nguyễn Quang Thiều vì con người, vì quê hương, vì trách nhiệm công dân với làng
với nước, vì bổn phận làm người trên trái đất. Thơ này rất chính trị mà không
vì chính trị. Không xuất phát từ cảm hứng thời cuộc, nó có ý thức chính trị mà
không có ý đồ chính trị. Nguyễn Quang Thiều cũng không có chính-trị-của-thơ
trong thi pháp. Không kể cả một nền thơ cách mạng và chiến tranh theo phương
pháp hiện thực XHCN, không kể dòng thơ miền Nam trước 1975 và thơ hải ngoại sau
1975, chỉ kể trong khuynh hướng Đổi mới đến nay thì rất ít tác giả không có
chính-trị-của-thơ trong thi pháp như vậy. Với Nguyễn Quang Thiều thi pháp là
ngôn ngữ của cái Tôi thời hiện đại.
IV.3.3. Về ngôn ngữ nghệ thuật, thơ
Nguyễn Quang Thiều “tồn tại hay không tồn tại” là ở đây!
Thanh Tâm Tuyền từng tuyên bố: “Tôi
đi tìm tiếng nói/ Cho cổ họng của tôi”, và 35 năm sau Nguyễn Quang Thiều cũng
đưa ra đường thơ tương tự “Qua cổ họng của buồn đau/ Qua cổ họng của cô đơn/
Qua cổ họng của thẳm lặng cất giấu” (Thánh ca tĩnh lặng), rồi 50 năm sau với Lê
An Thế: “vật chất là thời gian…/ là thơ tôi/ đang mất dần ngôn ngữ”.
IV.3.4. Về thể thơ không vần điệu,
có chất văn xuôi, Nguyễn Quang Thiều cách tân khác hẳn hai tiền bối Nguyễn Đình
Thi và Thanh Tâm Tuyền, trong khi nhị vị này khá giống nhau về hình thức kết
cấu. Có thể nói, với ba tác giả, xuất hiện một ngã-ba-thơ-không-vần-điệu thoát
hẳn thi pháp thể loại Thơ mới. Trong mươi năm qua, vô tình chứ hoàn toàn không
vì ảnh hưởng từ thơ Nguyễn Quang Thiều, những lối viết thơ không vần điệu biến
hóa khôn lường khiến hình thể thơ Nguyễn Quang Thiều lùi xuống như là cổ điển.
Vô tình là nói tương quan giữa các người viết, thực chất đó là cái hữu ý của
một thời đại thơ hiện đại và hậu hiện đại. (Xem tiếp phần V.5.)
IV.3.5. Về quan hệ văn hóa trong thi
pháp thơ Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi cho rằng qua đó sẽ có lý giải về các bất
thường và khó hiểu của một loại thơ vốn mang bản sắc vùng văn minh lúa nước
châu thổ Bắc Bộ, trong thiên nhiên cũng như trong tâm linh, với các hồi ức, ám
tượng, súc vật, đồ vật, kỷ niệm…
Do thiếu khả năng chuyên môn, ở đây
chúng tôi chỉ gợi ý về một khía cạnh của thơ Nguyễn Quang Thiều theo cái nhìn
từ Thuyết Bất vô - một thuyết căn bản của văn hóa thuần Việt do thiền sư
Đại Huệ (1088-1163) đưa ra, với ý niệm về tương quan hữu cơ hai chiều bình đẳng
của những cặp đối lập. Theo GS Lê Hữu Mục, nguyên tắc Bất vô gói gọn trong câu
thơ “Bất hợp bất phân li” như là tiêu chí của văn hoá Việt, biểu hiện trong tôn
giáo, ngôn ngữ, nhân sinh…
Lâu nay, ngôn ngữ Việt biến đổi đa
dạng và có nhịp điệu cân đối là nhờ tính hữu cơ như ở câu đối, ca dao, thơ lục
bát, thơ Đường luật, văn xuôi cổ… Tới thời Thơ mới, tiếng Việt gặp khó khăn với
văn xuôi hiện đại có suy nghĩ và lối nói theo ngữ pháp của các ngôn ngữ Anh –
Pháp vốn ít tính hữu cơ mà thiên về tính khoa học, sự độc lập giữa các thành
phần. Thi pháp thơ sẽ chỉ thành tựu khi có những liên hệ ở trong hay ngoài hệ
thống văn hóa của ngôn ngữ thơ. Lục bát là nguồn gốc của thơ tiếng Việt, kể cả
trong các thể thơ Đường luật và sau này trong thơ không vần, thơ tự do. Ở các
phần sau, như V.3, qua phân tích các bài thơ cụ thể, sẽ thấy nhịp điệu không
theo sáu-tám của lục bát ở thơ Nguyễn Quang Thiều tuy vi phạm nguyên tắc Bất vô
nhưng đã cố giữ sự hữu cơ trong toàn bài thơ bằng thủ pháp hình ảnh. Được mất
của thơ cách tân Nguyễn Quang Thiều có lẽ là đây, khi mà tác giả mang tính văn
xuôi phương Tây thay đổi nhịp thơ Việt?
Theo tài liệu nêu trên, thiền sư Đại
Huệ đã liệt kê 36 cặp “đối pháp” với 5 cặp thuộc “ngoại cảnh vô tình” (5
extérieures inanimés), đó là: Trời-Đất, Mặt trời-Mặt trăng, Bóng tối-Ánh sáng,
Âm-Dương, Lửa- Nước. Trong một số phương pháp phê bình văn chương Việt Nam, đã
có những tác giả dùng quan hệ biện chứng âm dương; như ở hai thập niên qua với
các tiểu luận của GS Hoàng Ngọc Hiến, nhà lý luận - phê bình Đỗ Lai Thúy, hay
trong một loạt khảo cứu của nhà văn Xuân Cang… Chúng tôi cũng để tâm điều này
như là một cách hỗ trợ, so sánh khi tìm hiểu tác giả và tác phẩm thơ Việt.
Trong khuôn khổ tham luận, dưới phần
Chú thích là phác thảo danh sách 3 dòng thơ Việt hiện đại: dòng thơ âm tính;
dòng thơ dương tính; dòng thơ song tính . Tiêu chí hiện chưa thật rõ ràng, tất
nhiên theo các yếu tố làm nên thi pháp, có kết hợp tương quan truyền thống -
hiện đại, văn hóa Đông - Tây, nhân thân tác giả… Nhận xét ban đầu: Dòng thơ
song tính Việt cao nhất về số lượng, có lẽ vì cảm xúc và lãng mạn là phong cách
văn nghệ của người Việt, của văn hóa phương Đông; đồng thời chất hùng ca của
thơ Việt lại cao do dân tộc phải kinh qua nhiều cuộc chiến giữ nước và dựng
nước.
Nếu như nhận thêm ảnh hưởng từ văn
hóa phương Tây như thơ Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi tin thơ Dương Kiều Minh sẽ
không chìm sâu loang rộng mãi và lâu đến thế trong cốt cách Đông phương; để mà
thêm chút cuồn cuộn hoang dại Trung Mỹ như thơ Nguyễn Quang Thiều, tăng chút
kiêu hãnh và lừng lững của nguyên thủy Đông phương như thơ Đinh Hùng, trình
diện tư tưởng Đông phương một cách đau đời mà thông minh như thơ Hữu Thỉnh,
giải tỏa minh triết theo hướng trực diện và hóm hỉnh như trường ca Trần Nhuận
Minh... Được như thế, ánh sáng có giá trị tiên khởi cho một mùa văn học của tập
Củi lửa sẽ không chỉ tỏa ngay sau thời Đổi mới mà còn tới tận hôm nay hòa nhịp
với các điều kiện hậu hiện đại của xã hội Việt Nam.
Cũng thế về việc tiếp nhận tri thức
phía Tây bán cầu “ngay tại bản địa” với Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Hoàng Vũ Thuật,
Phan Thị Thanh Nhàn, Bùi Chí Vinh; và cả với một số thi sĩ - tiến sĩ như Tuyết
Nga, Phạm Đình Ân... Song, như thế lại khó hợp với Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận
Cầm, nhất là với Nguyễn Duy: tam vị mà “đi Tây ăn học” từ tuổi vị thành niên, e
rằng văn học cách mạng - hiện đại Việt Nam sẽ không có ba giọng thơ mang phong
thái tươi rói truyền thống Việt nổi chìm bên các suy tưởng tân tiến trong thứ
ngôn từ đã điêu luyện lại tự nhiên như là tiếng nói cho một thời đại văn học
trong tiếng súng. Còn nữa: May mà Nguyễn Bính chỉ “lên tỉnh” rồi “về” thì mới
trở thành “vua nước Bướm”! Nguyễn Bình Phương chẳng cần đi đâu, “ngồi” vầy vậy
thôi vẫn điểm xuyết các thi phái Âu - Mỹ trong thái độ văn học Đông phương của
mình.
Nguyễn Quang Thiều là minh họa mạnh
nhất cho xu thế “Go West” (Đi về phía Tây) cho thơ ca phần phía Đông của trái
đất, trong đó Việt Nam. Cũng như Nguyễn Linh Khiếu, anh còn tỏ rõ điều đó qua
thơ trường ca hậu hiện đại Việt. Đại diện ba thế hệ thơ Việt đương đại, Trương
Đăng Dung, Ngô Tư Lập và Hàm Anh đang là ba minh chứng tốt lành – và có phần
thuyết phục hơn Nguyễn Quang Thiều với đông đảo bạn đọc – cho các cảnh quang
Đông và Tây hội ngộ của kỷ nguyên toàn cầu hóa.
IV.4. Thơ Nguyễn Quang Thiều với vấn
đề thơ hậu hiện đại
Trong tập Châu thổ, không khó lắm để
thấy tác giả xếp các sáng tác có thể coi là theo khuynh hướng hậu hiện đại, ở
phần trước bài cuối cùng, gồm 16 bài, kể từ 0h17 phút (tr. 345) đến Lịch sử một
tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ (tr. 368). Có lẽ hai bài Công việc của tháng Mười Một, Bài
ca trước phần mộ Diễm Châu lạc trong loạt bài này? Ngoài ra, và đáng kể, trường
ca Lò mổ là một đóng góp độc đáo vào xu hướng trường ca hậu hiện đại Việt Nam
đang tung mở trong mươi năm qua. (Xem phần VI.)
Các tiêu chuẩn thông thường của cách
viết hậu hiện đại đã hội tụ về tác giả này. Bởi ngay trong lối viết lãng mạn –
hiện thực và hiện đại, thơ của anh đã có nhiều phá cách nhờ độ bấp bênh như đã
nêu: Giấu nén đề tài ý tưởng bằng ngôn ngữ hình tượng như là một kiểu giải
trung tâm; Xóa nhòa nội dung “câu chuyện lớn” khi trộn thể văn xuôi vào thơ; Di
chuyển hình ảnh và liên tưởng ký ức nhanh như là một hình thức liên văn bản;
Phi tu từ và trần thuật tối đa; v.v…
Như đã nói ở phần IV.3.1. về quan
niệm thẩm mỹ, thơ Nguyễn Quang Thiều không có độ hài hước nên khi chủ ý hoặc vô
tình viết chệch ra hay đi hẳn vào lối hậu hiện đại, tác giả khó có các sáng tác
nổi trội qua các bài thơ bình thường. Khi đề cập một số bài cụ thể, nhất là
trường ca Lò mổ, ta sẽ thấy khó bình giá thơ hậu hiện đại của tác giả. Cung
cách, giọng điệu không thể thiếu của lối viết hậu hiện đại là giễu nhại. Nó là
phần nổi của tảng băng phản tư sâu nặng trong tâm thức hậu hiện đại. Ở 14 bài
thơ hậu hiện đại nêu trên, ta như không thấy điều đó; mà chỉ nhận dạng hậu hiện
đại qua các kỹ thuật, như mô phỏng, tính trò chơi, phân mảnh từ hình thức đến
nội dung, liên văn bản… Cụm 14 bài này là sáng tác ở mức đạt, chưa đủ cá tính
sáng tạo, tức là thảy vào biển thơ hậu hiện đại khó nhận ra chủ nhân. Chúng tôi
chỉ chịu hai bài Chúc thư (tr. 350) và Những con mồi (tr. 365) là tạm xứng danh
Nguyễn Quang Thiều.
Mai Văn Phấn viết không nhiều trong
khuynh hướng này mà có vài bài đặc sắc. Thật ra, chuyển hệ thi pháp là điều gần
như bất khả với nhiều cây bút. Với hậu hiện đại càng khó khi quán tính tư duy
thơ đã mọc rễ theo lứa tuổi, nhất là trong bút pháp và cá tính. Trong các tác
giả tạm gọi “cao niên” chuyển hệ thi pháp, chúng tôi thấy có Thanh Thảo là giao
hảo nhất với “em chân dài” hậu hiện đại mà không tới mức tai tiếng. Nguyễn Đăng
Thường, Thi Hoàng, Nguyễn Đình Chính: khỏi nói, tam vị đã hậu hiện đại từ khi
“ăn nằm” với “chị ngực nở“ hiện đại. Thi Hoàng khi phát biểu thì ăng-ti hậu
hiện đại, nhưng vẫn vô thức ẵm vào sáng tác một số biểu lộ hậu hiện đại.
Các sáng tác mới, khác khuynh hướng
lãng mạn - hiện thực và tỏ ra theo hướng hậu hiện đại của Bằng Việt, Đỗ Trung
Quân, Trần Hữu Dũng đều có vẻ không tới. Cũng như Nguyễn Quang Thiều; Bằng Việt
và Trần Hữu Dũng thiếu hài giễu và phản tư. Trần Hữu Dũng đang là tác giả “cao
niên chuyển hệ” sung nhất thi đàn lúc này không chỉ số lượng (công bố tác phẩm
mới gần như hàng tuần, có khi hàng ngày!) mà cả tư duy lẫn hình thức thơ. Đỗ
Trung Quân khi phản tư hơi chao đà, còn hài giễu chưa đủ đô. Riêng về độ giễu
nhại hậu hiện đại, dù chưa hoàn chỉnh Lê Vĩnh Tài đang là tay số 1 khuynh đảo
thi đàn; nhuyễn hơn Lý Đợi, Bùi Chát nhiều; và quan trọng: thơ hơn. Nhưng về
thi pháp, thơ Nguyễn Đức Tùng mới là cách tân hoàn toàn về chất giễu nhại mà có
thể nói là thi ca Việt chưa từng có; ngặt nỗi, thi pháp này đảo lộn cả quan
niệm thơ nên chắc phải mất khoảng thời gian không ngắn mới hòa vào mạch thơ trữ
tình Việt đang có. Chúng tôi vừa mới đọc được ba bài đáng giá của giọng khôi
hài xám trong thơ đương đại toàn cầu: Bản đồ - tác phẩm cuối cùng của Nobel
1996 vừa qua đời, nữ sĩ Ba Lan W. Szymborska (Lê Bá Thự chuyển ngữ); Ánh sáng
ban đêm của nữ sĩ Mỹ N. Willard (Lê Đình Nhất Lang chuyển ngữ); và Toán cấp 1
của nam (thi) sĩ Việt Nam Thanh Thảo.
Khiếu thẩm mỹ (chẳng chịu cười trong
thơ!) trời sinh ra thế, và cũng có thể bởi Nguyễn Quang Thiều từng đốt cháy mùa
lãng mạn, không kinh qua giai đoạn anh hùng ca cũng như thời “hiện thực hồng”
mà “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” vào thời hiện đại với cái Bi làm
trọng. Thơ của anh hiện đại ngay sau khi xuất hiện không lâu.
Lý do sâu hơn: các bài thơ hậu hiện
đại của Nguyễn Quang Thiều hình như buông lỏng ý đồ văn hóa phổ cập. Tác giả
vẫn mải “làm thơ”, trong khi sáng tác hậu hiện đại là… làm văn hóa!
Văn-hóa-thơ. Phong cách hậu hiện đại là biết quên tính nội tại của mình hoặc
làm loãng nó trên bề mặt văn bản, giả vờ và hồn nhiên khiêu khích độc giả bởi
thẩm mỹ truyền thống bị động chạm, xúc phạm. Vờ thế thôi, để di chuyển tam giác
Chân - Thiện - Mỹ sang hệ quy chiếu mới, tức là tâm thức tồn tại và điệu kiện
sống còn mới. Trực diện hơn, chân thực hơn. Đó là “giá trị tiêu dùng” của sáng
tạo hậu hiện đại.
ĐỖ QUYÊN
No comments:
Post a Comment