Gần một thế kỷ nay, Trung Quốc dường như tuyệt đối vứt
thơ đi, đến mức dường như thơ không thể mọc tăm sủi bọt trên văn đàn. Nhưng họ
đã được cái gì? Được hai giải Nobel văn chương với Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn.
Tại sao, người Tầu lại có thể đoạt tuyệt với thơ như vậy? Rõ ràng vì họ nhận
ra, thơ vụn vài câu không thể là kiến trúc văn chương, và lao động lao động
nghệ thuật. Thơ chỉ là sinh hoạt chữ nghĩa ngẫu hứng bồng bột được chăng hay
chớ thôi.
Thơ chính thức là gì? Đó là
sự ngâm nga vần vèo truyền khẩu giành cho những người mù chữ cũng như không có
sách để đọc. Trong một xã hội ít học thì thơ còn đóng vai trò khoe mình đã thoát
bệnh mù chữ. Tại Trung Quốc, người ta khoe mình có chữ ở khắp nơi. Cung vua
cũng ghi chi chít chữ ở sau ngai để khoe mình nhiều chữ. Ngoài chợ thì kẻ sĩ
hơi tí là nẩy thơ vài câu, không thì làm câu đối hai câu cũng được. Thậm chí
luôn luôn sẵn sàng vén tay áo thụng viết một chữ Nhẫn, chữ Tâm để khoe mình biết
chữ. Tại sao người ta muốn vậy? Vì người ta muốn xác định mình có chữ có thể
làm quan như “học ưu nhi tắc sĩ”. Tại Trung Quốc còn có cả một phong trào thể
dục, sáng ra dùng gậy viết chữ xuống mặt đường, đó cũng là cách mặc cảm muốn
khoe mình tuy bình dân nhưng đã có chữ. Các bậc cha mẹ hiện đại của Trung Quốc
còn có một câu phổ biến “không vào đại học thì đời vứt đi!”
Thơ ngắn vụn vặt vì mới đầu
nó chỉ là tức cảnh sinh tình, tùy tiện, đi đâu khoe chữ đấy. Tuy vậy người Tầu
rất khinh thơ. Họ cho rằng làm người quân tử thì trước hết phải thông thạo Nho
– Y –Lý –Số. Nho là Nho giáo với bậc thầy Khổng Tử. Y là y học với sự thành
thạo về nguyên lý cơ thể kết hợp với cơ địa của trời đất. Lý thuộc về nguyên lý
vũ trụ càn khôn với bộ Kinh Dịch là chủ đạo. Còn số là phải biết áp dụng các
môn Tử vi, Tử bình, phong thổ, kỳ môn độn toán, tướng mạo.
Sau đó mới đến:
Cầm-Kỳ-Thi-Họa. Mấy thứ này đều là sinh hoạt, bao gồm: Cầm là chơi đàn, kỳ là
chơi cờ, sau mới đến Thi là chơi thơ, rồi đến họa tức vẽ vời. Bốn môn này không
nói về bậc quân tử mà có rất nhiều gái thanh lâu mới tuổi đôi mươi đã thông thạo
làu làu để còn ứng tác với kẻ sĩ.
Người Hy Lạp thì còn khinh
bỉ thơ ra mặt. Triết gia Platon chính thức nói “Hãy mời các nhà thơ đi khỏi
quốc gia để nước ta xứng đáng là của những người thông thái”. Còn trong đời
sống, nghe kể, người ta xếp các nhà thơ cùng với thợ thủ công ở ngoài thành để
những thói xấu của nhà thơ như la cà, ham vui, xạo, háo danh tí tởn không làm
hỏng đạo đức của các công dân. Mỗi buổi tối, đàn ông Hy lạp được lĩnh vé xem
của quốc gia, trọng đại đi đến nhà hát bi kịch để chìm đắm trong những vở kịch
hoành tráng có nhân vật và tình tiết. Ở nơi trọng đại như vậy không bao giờ có
chỗ cho thơ lẻ và vụn, mà chỉ có những vần thơ được đọc theo mạch chảy của
trường thiên kịch.
Người Việt Nam cũng rất
coi thường thơ chỉ trong hai từ “Thơ – Thẩn”. Nghĩa đó là dạng lẩn thẩn dở khôn
dở dại. Trong bài viết rât sâu sắc và phong phú mới đây trên blog Trần Mỹ Giống,
tác giả Lê Tự trong bài “Thơ… SOS” có tả một cảnh bi hài thế này: trong một
cuộc liên hoan ở Thủy điện Sông Đà, có vài chục người Việt lên đua nhau đọc thơ
khiến cho các chuyên gia Nga mắt tròn mắt dẹt không hiểu tại sao Việt Nam lại có đông
nhà thơ như vậy?! Trời ơi nước Nga là một cường quốc văn học trên thế giới với
hàng trăm thi hào và văn hào, vậy mà không thể có nhiều người vui vầy làm thơ
như Việt Nam. Điều này đáng mừng hay đáng lo? Chúng ta thấy hiển nhiên sỏi bao
giờ cũng nhiều hơn núi. Nhưng cái đáng lo ở đây là, trí tuệ mấy anh tranh tre
nứa lá của ta thấp quá, không biết trời cao đất dầy là gì, lúc nào cũng đòi tung
tăng đọc thơ, mà lại đọc trong tinh thần ích kỷ, và nhiều phần dốt nát. Người
đời vẫn nói “Im lặng là vàng”, khi gặp những người cao hơn thì ta phải biết
lắng nghe, đằng này lúc nào cũng đặt cái tôi của mình lên trước, không cần tiếp
thu ai cả, chỉ cần được khoe mẽ tí thơ. Mà thơ nào có hay hớm gì đâu.
Qua nhiều năm quan sát kỹ
nền thơ Việt, tôi thấy các nhà thơ chẳng mấy khen ai, nghĩa là họ rất đố kỵ.
Chẳng biết nghe ai, chỉ cần mình được đọc thơ, rồi vào Hội, rồi leo ghế, rồi ẵm
giải. Không phải chỉ có tôi thấy thế, mà ngay nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ lâu
đã nói: đó là đám vô học dốt nát, “đám giặc già thơ phú lăng nhăng”.
Nhìn kỹ hơn, tôi thấy, thơ
là một đầm lầy bầy nhầy ẩn nấp những ký sinh trùng thơ hãm tài, nhân cách thấp
kém. Tôi xin phân tích cụ thể:
1. Hiểu biết thấp: Xưa nay, cả thế giới nói “Đức hạnh là hiểu
biết”, hoặc như người Tầu nói “Nhân bất học bất tri lý”, muốn có đức hạnh người
ta phải biết cái gì đúng để làm, cái gì sai để tránh. Đằng này trình độ của các
nhà thơ nói chung chỉ là sinh hoạt khoe mẽ mình vừa thoát nạn mù chữ (trong
thực tế, sau bình dân học vụ, các tiểu nông Việt đã ào ào làm thơ), vì thế
trình độ nhân cách của họ rất thấp, chủ yếu là thơ hiếu hỉ, gặp đâu nói đấy.
2. A dua, ăn theo nói leo: Thơ là ăn theo trăm phần trăm. Thứ
nhất Cung đã vượt quá Cầu, người nghe thơ thì ít, người đọc thơ thì nhiều. Cụ
thể, HNV muốn ra trang thơ thì phải in kèm độn vào trang báo. Ngay cả cái tên
Hội Nhà Văn cũng là thương hiệu ăn theo cho các nhà thơ. Rồi rất nhiều nhà thơ
muốn xí xộ mình là nhà văn cũng là cách ăn theo. Theo triết học, người ăn theo
không có chủ quan tính, không phải chịu trách nhiệm về mình. Một người như thế
thì làm sao đáng tin vào nhân cách hay đạo đức được.
3. Đố kỵ, ích kỷ, cấu kết bè nhóm, đánh chặn hiền tài: Sự đố kỵ
của các nhà thơ nhìn đâu cũng thấy. Tôi xin đưa ra một minh chứng, ủy viên ban
giám khảo kia đưa tập thơ đòi dự giải quốc gia, một ủy viên khác nêu lên, tôi
không đồng tình vì như thế là phạm qui, nhưng tất cả các ủy viên khác đều phớt
lờ, điều đó chứng tỏ người ta ngang nhiên bè phái đến thế nào! Còn sờ sờ kia
cuộc thi thơ của 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long có đến 40% đạo văn và phạm
qui, có chứng minh sự bỉ ổi ở mức quán quân chưa?
4. Lưu manh càn quấy: Việc mấy nhà thơ kia văng cứt và đếch vào thơ
liên tục, không chỉ phản ánh thẩm xú thơ mà còn muốn nói “bố” giang hồ đây, thơ
“bố” còn sẵn sàng ném bom bẩn và đếch thì “bố” ngán ai. Thử xem mấy tay giữ con
dấu không ăn chia, sẽ nếm cái gì? Và chỉ cần một mệnh lệnh nhỏ, lập tức có một
phi đội phê bình gia hợp tác xã lao vào tung hô thơ cứt lên mây xanh, thử hỏi
đó có phải là bằng chứng của sự a dua bỉ ổi không?
Thôi, nói về cái kém, cái
dở của thơ Việt thì không hết được. Nhưng tôi chắc chắn cái cách nhiều người
làm thơ và lạm dụng thơ hiện nay chỉ làm cho văn hóa nước nhà dậm chân thụt
lùi. Một điều không cãi được, muốn có nền văn hóa lớn chúng ta phải có tác phẩm
lớn. Ai biện hộ và cãi bỏ điều này, chắc chắn là một người vừa nhìn đã thấy bé
nhỏ, cho dù đó là người làm thơ Haiku hay đi nữa. Một cái tăm đẹp không bao giờ
là một máy bay đẹp cả. Và đa số những người làm thơ, vui thơ, chơi thơ ở Việt Nam nên nghĩ,
cho tới bao giờ mình chưa viết được tác phẩm thơ lớn có nhân vật thì mình chỉ
là Sinh Hoạt thơ chứ chưa bao giờ là Lao động nghệ thuật thơ cả.
Tất cả mọi lao động ở đời,
kể cả lao động nghệ thuật, nó phải cống hiến. Còn mới ngả ngớn, trà dư tửu hậu,
đầu thừa đuôi thẹo thời gian làm mấy bài thơ tùy tiện rồi ngâm nga đòi vòi vĩnh
những giá trị lớn của nghệ thuật, đó chỉ là sự ăn may dựa trên bất công tem
phiếu thôi. Người ta có được gía trị ngang với những gì mình cống hiến. Ta mới
làm thơ trong vòng nóng ấm chè, trở mình vài cái trong đêm, hay hít phải mấy
bụm sương thu lành lạnh… tất cả những thứ đó không bao giờ là lâu đài nghệ
thuật cả. Những chiếc lá cho dù có tụ bạ cấu kết với nhau cũng chỉ là đống lá
thôi. Còn một đại ngàn dựng lên, nó phải xuất hiện theo một nguyên lý cắm mốc
từ trong lòng đất. Kiến thức phải sâu, lý tưởng phải ngước nhìn các tầng trời,
khi đó đại ngàn mới xuất hiện. Còn loanh quanh nhìn ra vườn, vớt mấy con ốc
ngồi nhắm rượu nút lá chuối với mấy sợi rau vườn của mẹ, thì chỉ ra mấy bài thơ
trên chiếu thôi.
Vì thế để có tác phẩm lớn,
tôi đề xuất nên mạnh dạn vứt thơ đi. Vì ở đó có ít tinh hoa quá mà chủ yếu là
chổ ẩn nấp của đám ít học hãm tài còi cọc nhân cách. Còn nếu ai là một phần nghìn
tinh hoa đích thực thơ, tôi xin có lời tạ lỗi!
13/07/2013
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
No comments:
Post a Comment