LÂM HẢO DŨNG
Trải qua một thời kỳ nở rộ của các cây viết học đường
sang đến giai đoạn in ấn và ra mắt các đặc san, chúng ta phải kể đến Trần Phù
Thế, Lưu Vân, Lan Sơn Đài, Trần Như Liên Phượng, Ngô Nguyên Nghiễm, Hoài Ziang Duy,
Nguyễn Bạch Dương… ở miền Tây sông Cửu. Miền Trung có Hoàng Lộc, Hoàng thị Bích
Ni, Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Hoàng Khai Nhan, Nguyễn Lệ Uyên, Hoàng Xuân Sơn,
Tần Hoài Dạ Vũ…Riêng Trần Như Liên Phượng đã bỏ cuộc chơi sớm vào lúc mà thơ
anh đang độ chín mùi.
“Em chưa đầy mười bốn
Lòng trẻ thơ đâu
rồi
Những bước dài bão tố
Vũng nước mặn trên môi”..
(Đó em của TNLP trên tờ Tiểu thuyết tuần san)
Những câu thơ gần như tiên tri, báo trước một giai đoạn
trổi dậy của tuổi trẻ, của những phong trào hiện sinh vào những năm kế tiếp,
nhất là sau năm 1963, có những đổi thay về thể chế chánh trị.
Những năm đầu thập niên 1960, những tâm hồn mới lớn say
mê chữ nghĩa thèm những bước đi xa. Và tờ Tiểu thuyết tuần san của ông Nguyễn
thiện Dzai là một trong vài tờ tạp chí đã đáp ứng được khát vọng của các cây viết
trẻ như Ngàn Khơi, Văn, Bách Khoa..
Cho đến hôm nay, tại hải ngoại,những cây viết vẫn còn
nặng nợ với “ văn chương”, vẫn miệt mài với chữ nghĩa, trả cho hết nợ tằm như
Thái Tú Hạp, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Hoàng Xuân Sơn, Trần Hoài Thư…
Những năm tháng chiến tranh khốc liệt , nhiều anh em nhập
ngũ được tung ra chiến trường từ miền Trung hỏa tuyến đến rừng đước ,
rừng mắm sình lầy ở Cà Mau, Rạch Gía…Họ là chứng nhân thật của sự va chạm giữa
cái sống và cái chết, giữa những trái tim rất người và giữa những khối óc được
nhồi nắn căm thù.
Từ gĩa mái trường nhập ngũ, tham gia nhiều cuộc hành
quân. Tháng tư tan hàng. Nhà thơ Trần Phù Thế, cũng như nhiều anh em quân nhân
khác không thoát khỏi cảnh tù đày, gia đình ly tán.
Anh đến xứ người trong tâm trạng “Là ta cách biệt quê nhà
- Nghe mưa xót ruột đau và miếng cơm” (Giởn bóng chiêm bao trang 5) hoặc “Phân
vân không nẻo quay về - Muốn lên phía Bắc lại lìa phương Nam - Mõi lòng
một dấu chấm than - Bâng khuâng một góc trời tàn quê ta - Quê nhà trang 6”.
Nơi tác gỉa ở mùa đông cũng chừng như có tuyết lạnh -
nhưng cái lạnh của một nơi có gia đình đoàn tụ, quây quần, có nhiều người cùng
nói một ngôn ngữ mẹ đẻ, cái lạnh xem chừng cũng dịu bớt đôi chút. Ngược lại những
năm đầu 1980, nỗi cô đơn gậm nhấm tâm hồn, nhẹ nhàng nhưng tàn bạo như nỗi lòng
của kẻ xa nhà với “Căn gác lưu đày” của nhạc sĩ Anh Bằng. Sau những giờ làm
việc mệt nhọc, những mong có cơ hội giúp gia đình còn ở lại bên kia bờ đại
dương. Tâm trạng rã rời hơn khi nhìn căn phòng nhỏ trống trải, buồn một mình
không người sẻ chia.
Trong lúc đó ở quê nhà, hoạt cảnh sinh động được Trần Phù
Thế ghi lại lúc còn ở trại tù Vườn Đào - Cai Lậy vào năm nước lụt,những
tù nhân phải sống vất vưởng trên nóc nhà:
“Trên trái đất này
nhất định
không trại tù nào
“dị hụ “đến thế
(đỉnh cao trí tuệ – trang 14)
Tương tự như cách gọi của Ông Trần Văn Nam, những phương
ngữ Nam bộ mà khi viết lên người đọc, người nghe cũng nhận thức được. Chữ “dị
hụ” hay “ dị hợm” diễn tả những đặc điểm khác biệt, không giống ai.
Và trong bài “Biết rót về đâu” có câu:
“Ta và bạn lạ hoắc lạ huơ
Một thằng Huế một thằng Nam bộ
Khi khổng khi không hai thằng gặp gỡ
Uống cạn ly đầy ly rượu tàn canh”
(Biết rót về đâu trang 21)
Trần Phù Thế ngẫu hứng đã đưa phương ngữ lạ hoắc lạ huơ
vào câu mở đề thật tự nhiên lý thú. Đó là những nét đặc thù của các người
làm thơ miền Nam,
nơi mà đời sống hiền hòa như hai mùa mưa nắng.
“Nơi tụ điểm thương hồ
Nơi hẹn hò bến đậu
“Khẳm lừ” ghe dưa hấu
“No đầy “ xuồng khoai lang
Con nước rong tràn bờ
Thuyền anh dừng bến đợi”
(Ngã tư cột lồng đèn)
Chữ “no đầy” được tác gỉa sử dụng thật khéo léo đối với
chữ “ khẳm lừ”. Khẳm là đầy ắp đến độ hết chỗ chứa.
Trong bài “Chuyện đời ta” trang 25, nhà thơ viết:
“Cây mít cây xoài
Ông nội trồng vừa ra trái chiến…”
Trái chiến là trái ra đầu tiên từ khi trồng cho đến ra
hoa kết trái. Nó là kết qủa của một qúa trình gian khổ, dày công vun xới.
Tình vợ chồng gắn bó mặn nồng, đôi lúc vì kinh tế gia
đình, hoặc thiển cận nhìn lệch lạc vấn đề, sự hờn giận là lẽ tất nhiên:
“Cũng như vợ chồng ta cưới nhau từ tuổi đôi mươi
Nhiều năm qua ngọt bùi đều chia xớt
Giận cũng nhiều, yêu cũng lắm: “dễ ợt”
Chuyện thường tình của đôi lứa trăm năm”
(Thư không tem gởi vợ trang 52)
Ôi làm thơ như Trần Phù Thế cũng rất là “dễ ợt”.
Ngôn ngữ bình dân, đời thường được nhà thơ múa bút
quẳng vào thi phú bỗng trở nên dung dị và trác tuyệt đến vô ngần. Có người đặt
câu hỏi- còn ngôn ngữ văn chương đâu?. Chúng ta sẽ cảm nhận trong những bài
khác. Quan trọng là khi đọc thơ liệu thơ có thẩm thấu qua tâm hồn người đọc được
hay không?.
Tác gỉa cố gắng tự kềm hảm trong thành lũy cô đơn vì sự
thật thà bất hạnh của mình. Đau đớn thể xác chỉ là một sự thể hiện của đau khổ
tinh thần
“Như là như thể đánh rơi -Trái tim rướm máu
nằm phơi chợ đời -Và anh thức mãi một thời – Cơn mê bất chợt thành người
chiêm bao- Nói năng” Bắc đẩu Nam tào”- Và anh quên “tuốt “ngõ vào ngõ ra- Dẫu
đi đường lạnh trăng tà- Chia đôi bất hạnh thật thà niềm tin- Dẫu anh giỡn bóng
một mình- Cũng không đốt nỗõi cái hình nộm kia…”
(Giỡn bóng chiêm bao trang 71)
Chúng ta bắt gặp chữ: “Bắc đẩu Nam tào”, “ quên tuốt” hay
là “ quên tuốt luốt”, chừng như là quên hết , quên tất cả…Người thơ của miền
sông nước Hậu Giang, chân chất sống bằng trái tim giản dị hiền hòa, nên những câu,
những chữ giao tiếp hằng ngày đã thâm nhập vào tim óc tác gỉa lúc nào không
hay?. Cơn mộng đã dẫn dắt tác gỉa đến cơn mê sảng, say thiếp, trách cứ mình rất
đỗi thật thà và khi tỉnh dậy:
“Níu chi cái bóng tàn khuya - Để tan theo tiếng động về
rạng đông”.
Qua bài “Giỡn bóng chiêm bao”, những ngôn từ phổ cập đã
được Trần Phù Thế dàn trải thật điêu luyện, người đọc không cảm thấy khó chịu
khi giọng thơ từ câu này chuyển sang câu khác, không bị gò bó, nó xuôi chảy như
dòng sông Đại Ngải- Hậu giang tuôn về biển cả.
Trong bài “Tuổi thơ Đại Ngải”, tác gỉa diễn tả rất mộc
mạc, ngây ngô thời đi học ở làng quê- thoắt cái mấy mươi năm. Thời gian và kỷ
niệm nhạt nhòa, nhưng cũng không ai ngờ bỗng dưng nơi xứ người lại bừng sống dậy:
“Em cười nở cả đôi môi - Bởi tôi “húi” trọc
mồ hôi chảy ròng” (TTĐN trang 74)
“Húi” trọc hay cắt trọc được người thơ đưa nhẹ vào câu
viết tạo nên một hình tượng đầy sống động của một cậu nhỏ, tuổi còn thơ.
Hay:
”Ngày qua Trường khánh mấy lần
Nghe thơm cốm giẹp từng sân nếp nhà”
Cốm giẹp là đặc sản của miền Tây, như vùng Sóc Trăng, Bạc
Liêu. Thật thú vị khi ngậm một ít hạt cốm giẹp đầu mùa, chúng ta sẽ thưởng thức
được mùi nếp mới. Hương vị càng gia tăng nếu chúng ta trộn thêm cơm dừa bào nhỏ
và nước dừa. Người Cao Miên vùng Hậu Giang đã góp phần trong thực đơn của chúng
ta, lâu dần thành thói quen lúc nào không hay.Ngoài ra, còn có bún nước lèo,
bánh ống…
Cho đến bây giờ, người dân Đại Ngải- Sóc Trăng không thể
tìm ra và không hiểu vì sao con cá cháy biệt tăm. Cá cháy, một loại cá nước lợ ,to,
daì , có vảy trắng, mình hơi dẹp, giống như cá vảnh, nhưng dài hơn nhiều. Cá
kho mẳn, ăn với bún, nhất là nếu gặp con có trứng, những chùm trứng chan hòa
trong nồi cá kho, sẽ khiến ta thèm thưởng thức. Thêm vào đó, đầu cá mềm, nhai
từ từ sẽ thấy chất béo thấm tràn trong dịch vị của người ăn:
“Còn tôi biết tới thuở nào - Đợi con cá cháy lội vào
sông xưa” ( TTĐN trang 76)
Tâm trạng, xa quê hương nhớ mẹ hiền vẫn còn vương
vít trong lòng tác gỉa. Người đã tám mươi, tóc bạc, đã hy sinh chịu đựng vì
lũ con, giờ lại một lần rơi nước mắt khi tiễn con đi nghìn dặm thắm.Nhớ mẹ, nhớ
bát canh rau giản dị. Nhớ me,ỉ nhớ nồi canh chua cơm mẻ khôn nguôi. Chân tình
ấy đã nuôi dưỡng Trần Phù Thế thành hình hài hửu dụng cho nhân quần, xã hội
“Hơn nửa đời người tóc bạc lưa thưa
Ngược xuôi tất bật
Dù ở nơi đâu
Cùng trời cuối đất
Mỗi buổi chiều
Con còn nhớ mãi
Cái vị thơm nồng cơm mẻ nấu canh chua”
(Canh chua cơm mẻ - 84)
Ngoài những cây trái thân quen, những đặc sản của mỗi địa
phương hằng có dù còn tồn tại hay đã thành qúa vãng. Nơi con người Trần Phù
Thế, tâm hồn anh chàng chân quê không thể nào gột rửa được. Chúng ta hãy nghe tác
gỉa nâng ly:
“Nầy Bằng uống chút mà say - Chúa hay gỉa bộ kéo dài cuộc
chơi - Mầy đi lính vác dùi cui - Lính như lính cậu rong chơi Sài Gòn“. (Uống
rượu ở vườn trầu Bà Điểm- 86).
Hoặc:
“Nầy Dự, rượu hết hay còn - Đừng chơi tao nhé! tiếng
đồn đế ngon”
(UROVTBĐ-86).
Những câu nói bình dị, nửa như giận dỗi, nửa như pha trò.
Mọi người ai cũng hiểu chữ “ chơi” theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, đã ăn sâu vào
trong tâm trí dân Việt, không phân biệt trình độ, giai cấp: “ mầy chơi tao hả”
hay “Đừng chơi tao nhé”. Ở đây chữ “nhé”ùmang hơi hướm của miền Bắc, làm dịu
lại chữ “ chơi”. Có gì không hài lòng, vừa ý, cũng đành xuống thấp ở cuối chữ “
nhé”.Nghe lịch sự và thanh thoát hơn.
Bên cạnh những câu đầy chất giản dị, địa phương tính,
chúng ta không thể không thưởng thức những chữ, những câu rất “ đượm”của tác
gỉa.
“Một lần ở lại Kiên Lương - Khói xi măng” thở “bụi
đường Hà Tiên”. (Lỳnh Quỳnh -19)
Như đã có dịp bàn về chữ “ thở” trong một bài viết khác
của Trần Phù Thế. Tôi vẫn không thể không khoái cảm khi mường tượng ra nhà máy
xi măng chạy đều, bụi khói phủ đầy những con đường làng quê, thôn xóm. Nó cũng
tạo ra công việc nuôi sống nhiều người. Nó cũng đánh dấu một thời chánh trị,
kinh tế an bình của miền Nam.
Trong bài “Chuyện đời ta”, TPT với nỗi sầu ray rức khôn
nguôi:
“Ngày ra tù
Ta về đứng trước sân
Nghe mẹ nói
Con vợ mày đi biệt
Hai đứa con ba bốn tuổi làm sao biết
Lỗi ba đi tù
Hay lỗi mẹ còn son“
(CĐT-29).
Người thơ cuối cùng chỉ tự trách bản thân. Ai cũng phải
vất vã vì cuộc sống và lo toan nhìn về tương lai cho cá nhân mình.
Chuyện gia đình ly tán, bè bạn chia xa, kẻ ở người đi, kẻ
còn người mất. Nhà văn Nguyễn văn Ba cựu sinh viên Trường đại học Cần Thơ, định
cư ở Saskatoon - Canada, viết nhiều bài về miền Nam, nhưng chẳng may anh mất ở
vào tuổi trung niên, nhiều hứa hẹn cho sự nghiệp văn chương. Trong nỗi xúc động
nghe tin Nguyễn văn Ba mất, TPT thảng thốt kêu lên:
“Nha Mân em có về không?
Phương Nam
xa lắc nhưng lòng là đây
Một đời mê tỉnh cuồng quay
Mối hờn vong quốc biết ngày nào nguôi”
(Lời ru Nguyễn văn Ba-33)
Một câu nói nghe ra làm chết được lòng người
Hoặc:
“Chút lòng đau, nát lòng đau
Nén hương cố xứ bay vào cõi xa
Trái tim em để quê nhà
Nợ văn em để làm qùa mai sau
(LRNVB-034)
Vâng, đúng như ước nguyện của Nguyễn văn Ba và cũng là
ước nguyện của tất cả mọi người dân Nam nước Việt. Bước chân đi còn nhớ
quê nhà. Văn chương là món qùa tặng vô gía cho đời sau trong cũng như ngoài
nước.
Trong “Giỡn bóng chiêm bao”, không thiếu những câu thơ
đẹp, thoang thoảng như nụ tình trai gái tuổi thanh xuân. Bài “ Mùa xuân” chan
chứa biết bao niềm hy vọng:
“Thưa em ngày mới tinh khôi- Nắng biêng biếc chảy
vàng phơi nụ tình - Trên cây mùa đã cựa mình- Con chim lạ hót trên nghìn nắng
xuân.” (Mùa xuân trang 41).
Sự quan sát vô cùng tinh tế theo từng chút biến đổi
của cảnh vật, thời tiết và ngay cả chính tâm hồn:
“Thưa em ngày đã lặng im- Gío xuân rất nhẹ thổi mềm
nắng tơ- Lòng em cỏ rối đôi bờ- Anh hôn lên đó như ngờ hôn em” (Như
ngờ hôn em-42).
Còn nỗi vui nào hơn khi nhìn con ngủ. Đứa trẻ là đất trời
bao la; là tiếng thôi thúc gọi ta về
mỗi khi lang bạt.;là ta làm hàng dương , phi lao ngăn
sóng bảo. Tất cả dâng hiến cho:
“Trong nôi con nhoẻn miệng cười - Giang tay con nở mặt
trời tháng tư - Xoãi chân con đợi gío mùa - Tiếng ru của mẹ chưa vừa giấc con -
Đỏ hồng tí xíu chân son - Nâng niu cha ẳm đời con vào lòng” (Khi con
đầy tháng- 48).
Quan sát, quan sát và quan sát như Pavlov đã nói. Trần
phù Thế có là nhà quan sát không, chúng ta hãy:
”Bờ vai em những lông tơ mềm mại- Cũng sượng sùng khi
nghĩ đến lừa nhau” ( Thư gởi người yêu ở xa – 67). Tác gỉa có
liều lĩnh để phỏng đóan không?.
Thu là đề tài muôn thuở của thi nhân. Phác thảo qua văn
chương, chúng ta có Nguyễn Khuyến với Thu điếu, Thu Vịnh:
”Thu ăn măng trúc đông ăn gía - Xuân tắm hồ sen hạ tắm
ao”. Lưu trọng Lư với ”Tiếng thu”. Huy Cận với “Thu Rừng”: Nai cao gót lẫn
trong mù - Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về. Họ là những người đi tiên
phong, làm cách mạng cho ngôn ngữ…
Thu của Trần Phù Thế đầm thấm như cốc trà đậm nồng hương
đời, như kẻ lữ hành dày dặn kinh nghiệm và ở một lúc nào đó, có thể trở thành
người ẩn dật sau hàng phong:
“Ở đây trời chẳng trong xanh - Ngày thu cuối đã quẩn
quanh tuổi gìa - Rừng phong đầy lá hiên nhà - Vàng phai sắc nhớ chiều pha sắc
vàng - Biết ta cõi sống muộn màng - Vơi đi lá úa bên ngàn đầy thu - Đã
nghe tiếng thở sương mù - Tan trong cô quạnh với từ biệt tăm” (Thu
muộn- 92).
Tâm tình chân phương rất mực, tác gỉa phó thường dân miền
Tây Nam Bộ đang diễn trò “ sơn đông mãi võ” đang cổ động mời gọi, rao giảng
cùng Hắc Bạch giang hồ:
“Tôi biết tôi không có quyền lựa chọn
Người tốt- kẻ xấu đến với mình
Nên tôi vui lòng đón nhận như một niềm hạnh phúc”
(Tâm sự một con đường- 96).
Con người là sinh vật đáng yêu hay đáng ghét. Phạm Duy cứ
khản cổ hát:” Giết người đi thì ta ở với ai?...”.Trần Phù Thế phóng khoáng, cao
ngạo:
“Hởi những con người đáng yêu
Đang thở bầu trời xanh ngát
Hoặc những người ở xa
Hãy đến với tôi
Dù chỉ một lần
Tôi xin tự nguyện
Làm một con tàu chung thủy
Chuyên chở suốt đời “
(TSMCĐ trang 96).
Dường như tác gỉa đang lang thang trên núi Sam- Châu đốc
vào mỗi tháng ba nhân dịp Lễ Vía Bà. Có đi mới thấy núi non, cây đá chập chùng.
Không hùng vĩ so với những nơi khác, nhưng cũng đã tạo nên một sắc thái trang nghiêm,
huyền bí cho dân chúng miền Tây và dân chúng từ Sài Gòn đổ xuống . Thất Sơn,
bảy ngọn núi- linh địa của miền nam- Có Tây An Tự ( Bửu Sơn Kỳ Hương), có lăng
Thoại Ngọc Hầu. Nơi an vị Phật bà khói hương nghi ngút. Khách thập phương nam
nữ vui vẻ bầy đàn, rộn rịp cả một góc núi.
“Ước gì ta được hóa thân - Thành mưa tưới mát núi Sam
ngàn đời - Hỏi lòng lòng có đổi dời - Như cơn gío thoảng trên đồi Bạch vân”. (
Hỏi lòng- 98).
Buổi chiều cô độc, ngồi nhớ mông lung, khách giang hồ nơi
xứ người vẫn còn mang mang tình hận khôn nguôi;
“Nghìn năm một chữ vô thường
Bóng anh nhòa nhạt bên đường thu phong
Lá bên đời lá chạy rong
Trăm năm kiệt sức mình không thấy mình”. (Mùa thu và lá trang 102).
trần phù thế
Qua hơn năm mươi bài thơ trong “ Giỡn bóng chiêm bao” của
Trần Phù Thế, dàn trải qua các đề tài về thân phận, tình yêu và quê hương. Đặc
biệt là tình yêu trai gái vẫn không làm mờ nhạt đi tình yêu của cha mẹ và con cái.
Sợi dây ràng buộc mà mối thắt mở không thể tìm được đáp số.
Ngoài ra, tâm sự kẻ xa quê hương, tự nhận mình là kẻ lưu
đày hay dưới bất kỳ danh xưng nào, cũng nói lên rằng mình không còn trên xứ
Việt.
“Ta cười ta nợ núi sông
Xẩy tay mất nước lưu vong xứ người
Ta cười ta một trận cười
Trăm năm hồ dễ mấy người như ta” (Ta cười ta trang 104)
(VGH - 8-2012)
No comments:
Post a Comment