Tên thật: NGUYỄN HẢI THỆ
Sanh ngày 18.4.1940 (
Canh Thìn ), giờ Ngọ 12 giờ trưa
Quê quán Long Sơn, Tân
Châu – Châu Đốc
Năm 1954-1961: học sinh trường
Thủ Khoa Nghia-Châu Đốc
Năm 1961-1962: trường Sư
Phạm Sài Gòn
Ngy Do Thái còn ký nhiều
bút hiệu khác : Huyền Dân, Dân, Phương Mai, Nguyễn Thiếu Khanh, Nguyễn,
Nguyễn Viên Phương…
Tác phẩm thơ, văn, kịch,
kịch thơ… đăng trên nhiều báo chí Sài Gòn từ năm 1958-1975: Văn, Văn Nghệ Học
Sinh, Bông Lúa, Thời Nay, Gió Mới, Văn Học, Đối Thoại, Khởi Hành… Các tỉnh
như: Đất Mới, Tham Dự…
|
Ngy Do Thái (Nguyễn Hải Thệ)
“Bầy chim hồng hạc xưa bay
mất/ Tiếng gáy còn đồng vọng núi xa/Về gì? Đâu chẳng chốn quê nhà/Nhật nguyệt
đâu ghen người tóc bạc”. Lãng vãng đâu
đây thần khí của bài Hoàng Hạc Lâu xa xưa, khiến tôi chất ngất trên hàng hàng
lớp lớp những sợi tơ trời. Như vướng mắc thiên la địa võng trong hàng ngàn bài
thơ Ngy Do Thái, giao truyền tận tay tôi vào một buổi chiều đầy phong vũ. Tôi
mường tượng bóng dáng nhà thơ trong phong thái cẩn trọng lịch thiệp và đầy nét
lãng du, được chất đầy trong bốn bản thảo nhờ lưu chuyển về thư trang Quang
Hạnh. Thì ra, tận phương trời mây nước biên thùy quê xa, một lòng ký gởi những
tâm huyết suốt hơn nửa thế kỷ thơ về nơi tri ngộ…
Thời gian bay nhảy trên mái tóc
thanh tân đến ngày bàn hoàn bạch phát, quả thật nhìn đi nhìn lại chớp nhoáng
như làn chớp mơ hồ giữa khoảng không. Tất cả qua đi không bao giờ trở lại, họa
chăng chỉ còn vương vấn vài hình ảnh kỷ niệm xa mờ! Chính vậy, tôi ngơ ngác
ngồi bên bốn tác phẩm thơ của Ngy Do Thái, một người mà suốt đời người có lúc
sôi nổi trong dòng trào lưu tân hóa nghệ thuật của đầu thập niên 60, đến hiện
tại quang quả bước lên cõi hư phù mà mở rộng tâm thức hạo nhiên với vũ trụ
và đạo vị .
Cách đây hơn 50 năm, ở một thời
điểm miền Nam mở rộng cỗng nhà, để đón những làn gió sáng tạo của nền văn minh
văn hóa khoa học bốn phương. Trong nước, tiếp nối phong trào tân hóa văn nghệ
khai hoang từ thời tiền chiến, nay lại đón nhận những ý thức triết học tràn
ngập, làm phong phú thêm tư tưởng sáng hóa nghệ thuật, giúp đầy đặn sáng tác đa
dạng. Ngy Do Thái nằm trong lớp người say mê năng nổ và cật lực gom hết tinh
hoa tri thức bước vào lãnh vực văn chương. Nhóm Thế Kỷ Mới thành lập khoảng
thời gian 1959-1960, quy tụ những cây viết đầy uy lực gồm Ngy Do Thái , Mặc Lan
Hoài, Song An Châu… thường xuyên xuất hiện trên các tạp san đương thời như Văn
Nghệ Học Sinh, Bông Lúa, Gió Mới, Mã Thượng… Ngy Do Thái là cây viết đầu đàn,
đa dạng…trải dài qua các báo Văn, Văn Học, Thời Nay, Đối Thoại, Khởi Hành…với
thơ, văn, kịch, kịch thơ, từ những năm 1958 đến 1975.
Thời niên thiếu, khi còn ngồi
trên ngôi trường trung học miền núi quê nhà, những mộng mơ tuổi thơ phải chăng
là định nghiệp, khiến tôi cũng tập tành du hành vào những câu thơ tĩnh lặng cho
riêng mình. Những tiếp cận si mê văn nghệ, giúp những người tương lân gần nhau
và thân nhau một cách tình cờ. Thường xuyên hò hẹn những người làm thơ, trong
những buổi trưa vắng lặng nhẹ nhàng trong công viên bên dòng sông Hậu, ở những
năm tháng cuối thập niên 50. Quây quần giữa bạn bè thi phú, vạn hạnh nào hơn
những thời khắc tương giao, ngoài những tài hoa đương thời trước mặt như Mặc
Lan Hoài, Thương Hoài Diệp, Song An Châu, Hàn Thanh, Mai Thanh Tuyền, Nguyễn
Huy Chương...mỗi người một khí phách riêng tư, sừng sững với tương lai hiện rõ
trên khuôn mặt. Mặc Lan Hoài giới thiệu Ngy Do Thái… một nhân dáng độc đáo đa dạng
trong sáng tác. Ngy Do Thái học trước tôi khoảng 1 năm, nhân dáng sĩ phu hiện
rõ trên cung cách. Thật tình, sự ngưỡng mộ tài năng đã hiện hữu từ lâu trong
tôi, vì khi tôi chỉ làm thơ thì giai đoạn nầy Ngy Do Thái hiện diện nhiều trên
báo chí Đô Thành ngoài thơ còn truyện và kịch…Cái say mê tài năng vì sự đa dạng
trong sáng tạo, khiến anh em nể nang và cùng tập tành viết lách, hy vọng cũng
chan hòa trong đường nét đa dạng đó.
Bản tính khiêm cung, đầy tâm
huyết giúp Ngy Do Thái viết nhanh, tác phẩm đầy đặn giá trị. Thời gian như gió
thổi, tất cả đều trôi chảy xuôi theo dòng đời. Cái còn cái mất, cũng chỉ là phù
du. Ngy Do Thái hầu như sáng tác rất nhiều trong suốt khoảng đường đời hơn 50
năm qua… Nhiều thi phẩm, kịch bản, truyện ngắn, ký, kịch thơ…những sáng tác đã
đưa tên tuổi ông suốt quãng đường dài trôi nổi.Đáng tiếc, Ngy Do Thái làm thất
lạc nhiều tác phẩm… điều mà khiến không biết bao nhiêu văn nghệ sĩ khổ sở trầm
cảm canh cánh trong lòng suốt cuộc sống hóa sinh nầy.
Riêng tôi, khi được trao tặng
và đang lưu trữ cũng gần ngàn trang thơ , truyện và kịch của nhà văn nhà
thơ Ngy Do Thái-Nguyễn Hải Thệ ( 4 thi phẩm/Phù Du-Thu Không-Cúc Trùng
Dương-Ào Ảnh, 1 truyện/Trong Nắng Hạ Vàng, và 5 vở kịch/Chút Gì Trống Trong Kẽ
Bàn Tay -Hư Tưởng Của Dòng Sống - Chiếc Lá Me Vàng - Tiếng Súng Trong Đêm - Chờ
Sáng… ).
Tác phẩm của người làm văn nghệ
bao giờ cũng lả những bảo vật sống, trôi nổi theo tác giả suốt quãng đời hư
thực. Hình và bóng giao thoa không thể tách rời, đã là định luật bất biến trong
cõi hư phù nầy. Chính vì Ngy Do Thái hầu như chỉ viết tay những tác phẩm
thành một bản chính thức lưu giữ, nên khi thất lạc bản thảo thì là điều tuyệt
vọng vô cùng. Nên thỉnh thoảng khi có bằng hữu tâm giao ông mới sao y vài bản
gởi tặng. (Phải chăng, muộn còn hơn không, nhờ vậy đến nay mới góp nhặt lại và
giữ được những tác phẩm kể trên).
Sự bay nhảy ngạo nghễ trong thơ
văn của thời trẻ tuổi , cũng không khác với những tư tưởng sáng tác của hầu hết
thanh niên thời trước. Trong giai đoạn du nhập nhiều triết thuyết, nền văn minh
văn hóa thế giới, và nhất là giai đoạn quê hương trong dầu sôi lửa bỏng… ảnh
hưởng rất nhiều tới tư tưởng anh em văn nghệ. Chính vậy, khi Ngy Do Thái bước
vào trường Sư Phạm Sài Gòn, ( 1961 ) hầu như tác phẩm cũng dằn dặt trong nỗi
nhớ, lưu đày trong thân phận, tuổi trẻ, tình yêu, chiến tranh, bạn bè và sự
trầm luân của con người…Sự xáo trộn trong tâm thức được hoạt biến mãnh liệt
trên sáng tác. Nhưng những gì còn sót lại trong đời sống và lòng người, bất biến
theo thời gian mới là giá trị chính thống của nghệ thuật. Nhiều lúc, đọc lại
nhiều tác phẩm anh em, khi tỉnh thức hay đang nghiêng ngửa trong cơn say khướt,
chợt ngâm nga vài câu thơ …hình như thấy không gian thời gian ngưng đọng lại.
Thơ Ngy Do Thái cũng đầy chuyển biến trong cùng một dòng xoáy như vậy, bàng bạc
trong tận cùng ngõ ngách cuộc đời, tình yêu, và thời thế .
Thời gian sau, bẳng đi gần mấy
mươi năm gặp lại Ngy Do Thái nhẹ nhàng, khiêm dung , lãng du, hàm chứa phong
thái đầy đạo vị. Một ấn tượng không nghi ngờ về chuyển biến tâm thức, vắng
lặng, hạnh phúc, mà tương đồng đến nhật nguyệt đâu ghen người tóc bạc,
bởi sự hoác ngộ như sấm sét đang nhoáng vào tâm linh, hóa thân trong một kỳ khu
Nhất tức nhất thiết/Nhất thiết tức nhất , và bóng dáng thi nhân đang
hiển hiện ngoài dòng chảy hư không như:
Lão hốt nhiên điếng lặng
Một niềm vui vô tận
Chảy tràn lan. Bao la
Thanh khiết. Như trăng ngà
Một dòng sông huyền bí
Đang trôi chảy. Trôi chảy
Tuôn miên man. Chan hòa
Tuôn không ngừng. Vào ta
Ta tan hòa. Rào rạt…
( Ánh trăng./ Thi tập Cúc Trùng
Dương )
Thi phẩm Cúc Trùng Dương là
điển hình ghi lại cái nhìn của nhà thơ trước cái hư không cuộc đời. Thơ ông như
đang bước vào một quả vị trung đạo, vô tận vô biên vì không có gốc rễ đâu mà
nương náo, vì chớp mắt vào đời chớp mắt ra đi, chân trời góc biển chẳng dựa vào
đâu mà bền vững, chỉ tại nơi lòng mà thôi:
Thiên địa vô cùng
Trên đầu mảy lông
Nhật nguyệt trùng trùng
Trong lòng hạt bụi
( Người tới, ta về./ Thi tập
Cúc Trùng Dương )
Suốt đời người trôi nổi qua
hàng bao nhiêu ngày tháng nẩy hạt vươn chồi, trái ngọt bùi lẫn đắng cay mà sao
con đường hướng tới vẫn phía trước? Ảo ảnh giăng mắc trùng điệp quanh không
gian, thì sự tịnh tiến an lạc của chân tâm đã khiến Ngy Do Thái như muốn hoà
nhập cùng thơ, muốn di chuyển linh hoạt như đi trên thập mục ngưu đồ:
Đuôi trâu biến mất. Mênh
mông cõi ngoài
Mục đồng hôm trước qua đây
Bỏ quên ngọn sáo dưới cây
bên đường
( Bóng thuyền quyên xưa/ Thi
tập Cúc Trùng Dương )
Thoát khỏi bóng dáng đầy vướng
mắc tục lụy ngày xưa, dòng thi ca Ngy Do Thái chuyển động thoát ra ngoài những
mênh mông hư tưởng. Những bến bờ xa xôi vô tận giờ trả về ngàn phương với những
cuồng nhiệt cháy lửa ngày nào của sắc không. Cái ẩn hiện của đạo pháp xê
dịch luân chuyển trong thi pháp, ẩn mặc trong những khuynh hướng như tiên tri
trước cái hữu nhiên với vô hư. Khiến khách viễn phương nhiều lúc nhìn thấy nhà
thơ như đang quẩy hồn thơ bước trên những sấm giảng lão đạo:
Hốt nhiên. Từ trời đất
Thênh thang cất tiếng cười
Tiếng cười màu tím ngát
Vụt nổ tung giữa đời
Trời mười phương rúng động
Bão tố dậy hắc phong
Tiếng sắt cầm lồng lộng
Núi cổ cháy bập bùng
Cồn đá xưa nát vụn
Muôn tinh cầu vỡ tung
Triệu vì sao xa rụng
Cơn hồng thủy mịt mùng
Đất cuồng quay đảo lộn
Cõi người biển xanh dâu
Bụi tiếng cười xô cuốn
Sập cầu ngang bạch hà
Biển sóng dâng muôn trượng
Đánh chìm dãy đảo xa.
( Ta nghe ta mịt mùng/ Thi tập
Cúc Trùng Dương )
Luân hồi vẫn còn giăng mắc suốt
kiếp số, nên định mệnh của thơ dù đang trên đường thiền hành, nhưng vẫn
loáng thoáng hạt bụi trăm năm ôm đất quạnh và thi nhân đang nhìn y bát
mà gói lời kinh tụng thì coi như giấc chiêm bao thôi vậy…..
Viết tại Thư trang Quang
Hạnh
Ngày Xuân phân, Quý Tỵ
NGÔ NGUYÊN
NGHIỄM
TÁC PHẨM :
Ngy Do Thái Nguyễn Hải Thệ lưu trữ hơn ngàn bài thơ, được phân bố trong
4 tác phẩm đồ sộ:
1/ Phù Du (
2003 )
2/ Ảo Ảnh (
2004 )
3/ Cúc Trùng
Dương ( 2006 )
4/ Thu Không
( 2009 )
Ngoài ra, những bản thảo
đều viết tay mỗi tác phẩn chỉ lưu một bản duy nhất, nên trong thời gian khốn
khó ở làng quê, những tác phẩm thơ – văn - kịch thơ - thoại kịch…của Ông đã
thất lạc như:
1/ Đêm Da
Vàng ( tuổi trẻ, quê hương, chiến tranh )
2/ Khuyết
Nguyệt Động ( tình yêu, bạn bè )
3/ Buồn Phố
Nhỏ ( thân phận, kiếp người )
4/ Chiếc Lá
Me Vàng ( truyện, kịch, đối thoại )
Những tác phẩm thất lạc
nầy, nhiều bài đăng tải trên các báo và tạp chí xưa.
|
No comments:
Post a Comment