- Gặp Nguyễn Du
trên sông đêm, là bài thơ trong tập Trăng và thơ đọc chậm, Nhà xuất bản Hội Nhà
văn 2012. Ở bài thơ này tôi đặc biệt chú ý đến lời vấn an của Đại thi hào dành
cho người thơ Nguyễn Việt Chiến: “Ta nói điều này cho anh biết. Chỉ có trong những
đêm mưa lớn của đời người như anh đang từng trải qua, người thơ mới có thể ra
sông văn câu được những bài thơ, tứ thơ, những câu chuyện văn chương hay nhất
trong cuộc đời cầm bút của mình…”. Qua lời vấn an có phần khẳng định này, phải
chăng anh đã và đang có những bài thơ, tứ thơ hay nhất cuộc đời mình?
Nguyễn Việt Chiến |
+ Tôi nghĩ là như vậy, và có thể nói thơ của tôi trong Những
đêm mưa lớn của đời người và trong thời gian hoạn nạn ấy, đã có một cái
nhìn sâu rộng hơn vào chính bản thể đời sống của con người với những nỗi khổ
đau, bất hạnh thật sự và hy vọng thầm lặng thắp lên từ những tháng ngày ấy đã
mang lại cho nhiều bài thơ của tôi một dư chấn khác, một tâm thế khác, một đời sống
khác, một ám ảnh thơ ca khác, một cứu rỗi khác…đã làm thay đổi nhịp điệu tâm
hồn tôi và phần nào đó làm thay đổi ngôn ngữ thơ tôi. Giấc mơ gặp cụ Nguyễn Du
đi câu trên sông đêm là một giấc mơ có thật trong chuỗi ngày hoạn nạn gặp “tai
nạn nghề nghiệp báo chí” của tôi.
Cũng từ giấc mơ kỳ lạ đêm mưa lớn ấy, tôi viết được bài
thơ lục bát Gặp Nguyễn Du trên sông đêm với những câu thơ không thể
viết được lần thứ hai trong đời. Sau này khi đọc bài thơ của tôi in trên báo,
một nhà thơ nói vui: “Mình cũng muốn vào trong ấy ít ngày để thử viết một bài
thơ như vậy xem có được không?”. Tôi cười bảo: “Ấy là ông nói vui như vậy, chứ
vào thì cũng khó lắm mà ra thì còn khó hơn nhiều!?”. Đúng ra, lời khuyên của cụ
Nguyễn Du đối với tôi trong giấc mơ đêm ấy như một sự động viên, vỗ về, an ủi
đối với một người thơ đang gặp hoạn nạn, tôi nghĩ như vậy và có vẻ nó cũng giống
như một lời tự vấn về nghề văn, bởi tôi cho rằng nỗi đau lớn thường sinh ra
những bài thơ lớn.
- Vâng, chính
từ hiện thực đời sống đã tạo nên ở anh nhiều bài thơ thân phận rất đậm chất
Nguyễn Việt Chiến. Nhưng đọc những bài thơ anh viết trong giai đoạn này tôi
nhận thấy rằng: dù thân phận ấy có phải trải qua những cơn mưa lớn trong đời
người thì những hình ảnh của trăng,của hoa sen, Đức Phật hay tình người… vẫn tỏ
rạng. Dường như anh đang muốn hướng thơ mình tới những vùng sáng của cuộc đời.
Điều tôi nhận thấy là như thế, còn với anh thì sao?
+ Đúng vậy! Thơ của tôi qua mấy chục năm cầm bút đều nhất
quán như vậy, luôn hướng về đời- sống- thiên- nhiên và những vùng sáng
của cuộc đời. Ngay cả trong thời gian hoạn nạn, tôi vẫn cố giữ được cho thơ
mình cái nhìn hồn nhiên - tự tại vốn là bản ngã sống của phong cách thơ tôi.
Tôi có cảm tưởng trong những ngày đau khổ ấy, tôi luôn được che chở bởi người
mẹ thân yêu của mình qua hình ảnh một ngôi chùa trong đêm: “Mẹ ơi! đám mây lành
kia là con trai của mẹ/ dẫu ánh ngày đã tắt/ mẹ vẫn nhận ra con dưới mái nhà
này/ mẹ vẫn nhận ra con/ mùi mồ hôi bé bỏng quen thuộc/ khi con chạy về từ một
tuổi thơ xanh xao còm cõi vì chiến tranh/ cho đến ngày đám mây lành kia/ dừng lại/
trước một ngôi chùa/ Một ngôi chùa/ lặng lẽ nở trong đêm/ như một đoá sương
trong vắt /khi những bông sen/ như búp tay nhân từ của Đức Phật/ đang lẳng lặng
vén bóng đêm u ám/ trên gương mặt nhẫn nhục của con người/ trong một tiếng
chuông sâu”.
Và cho đến giờ, tôi vẫn mang trong đời sống tinh thần
mình hình bóng một ngôi chùa trong đêm như thế. Ở một bài thơ khác viết về
“Trăng nơi đáy sâu” tôi đã viết như sau: “Ta đã chìm rất sâu trong một đêm mưa
lớn/ không ai đến được với ta/ nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia/ ta vẫn
nhận thấy hơi ấm của em/ vị mằn mặn của ánh trăng/ thứ ánh sáng không bị huỷ
hoại bởi bùn tối của những đáy sâu/ và có lẽ ta đã được cứu thoát bởi chất muối
ấy…”. Đây là một bài thơ tình tôi viết ở giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời
cầm bút của mình.
Em trong bài thơ này được ví với ánh trăng, với cái đẹp
và dĩ nhiên được ví với thơ. Nhưng có lẽ chỉ có nhà thơ nào buộc phải sống “ở
nơi tận cùng của đáy sâu kia” mới có thể cảm nhận được vị mằn mặn của ánh
trăng, thứ ánh sáng không bị hủy hoại bởi bùn tối của những đáy sâu. Và như tôi
đã tâm sự trong bài thơ này, khi ở nơi tận cùng đáy sâu kia, tôi đã được cứu
thoát bởi chất muối ấy.
- Gần đây, có
tờ báo đã gọi anh là: Nhà thơ của “Tổ quốc nhìn từ biển”. Được biết, anh cũng
vừa hoàn thành một trường ca hàng trăm trang có cái tên này, và trường ca này
còn tham gia chương trình đầu tư sáng tác của Bộ Quốc phòng. Anh có thể nói đôi
chút về tác phẩm này? Có phải nền tảng của nó chính là bài thơ cùng tên?
+ Sau thành công của bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” tôi
bắt tay ngay vào việc sáng tác một trường ca về biển đảo với cái nhìn ở các
chiều kích sâu rộng, bao quát hơn về đời sống của con người và biển cả. Qua
trường ca này, tôi cũng mong muốn góp phần dựng lại cái không khí tráng ca của
một thời trận mạc mà dân tộc Việt Nam đã trải qua qua 2 cuộc chiến
tranh dựng nước và giữ nước. Cũng ở trường ca này, tôi muốn dựng lại một phần
không khí sử thi và tinh thần quật khởi của cha ông trong suốt hai ngàn năm giữ
nước. Sau khi viết xong, tôi quyết định đặt tên cho tập trường ca này là “Tổ
quốc nhìn từ biển” (không phải vì nền tảng của trường ca là bài thơ đã in) mà
bởi tên gọi ấy gợi lên tâm thế của những người Việt Nam yêu nước hôm nay đang đối
mặt với muôn vàn gian lao, khó khăn để trụ vững nơi “Đầu sóng ngọn gió” bảo vệ
Tổ quốc thiêng liêng này. Tập trường ca sắp in của tôi viết về đê tài biển đảo
Tổ quốc, chiến tranh cách mạng và người lính với hơn 1000 câu thơ gồm 10
chương: Tổ quốc ở Trường Sa, Đất mẹ, Ký ức biển, Tổ quốc nhìn từ biển, Cỏ và
thuốc súng, Thưa mẹ! con sẽ về, Từ sông Hồng, Đến Thăng Long, Mẹ -Tổ quốc, Ta
là con của Việt Nam.
Đây là tập trường ca mang tính sử thi đậm chất tráng ca với các thể loại thơ từ
tự do đến tám chữ, từ lục bát đến năm chữ… với nhiều thể nghiệm thơ mà tôi rất
tâm đắc.
Nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến Sinh năm 1952
tại Thạch Thất, Hà Nội.
Tác phẩm đã xuất
bản: Mưa lúc không giờ (1992); Ngọn sóng thời gian (1998); Cỏ trên đất
(2000); Những con ngựa đêm (2003); Thơ Việt Nam, tìm tòi và cách tân (2007);
Trăng và thơ đọc chậm (2012). Giải thưởng: Giải nhì cuộc thi thơ Báo Văn nghệ
năm 1989-1990; Giải nhì cuộc thi “Thơ hay về biển” năm 1992; Giải nhì cuộc
thi thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2000; Giải thưởng thơ Hội Nhà văn Hà
Nội năm 2004; Tặng thưởng thơ Hội Nhà văn VN năm 2004; Giải ba cuộc thi thơ
1000 năm Thăng Long – Hà Nội năm 2010; Giải nhì cuộc thi thơ “Đây biển Việt
Nam” năm 2012.
|
- Nhân nói đến
thể nghiệm thơ, Nguyễn Việt Chiến vẫn được xem là nhà thơ có thiên hướng tìm
tòi cách tân đổi mới nhưng trong một vài sáng tác vốn không có nhiều dấu hiệu
của sự cách tân đổi mới như bài Tổ quốc nhìn từ biển thì lại được đông đảo bạn
đọc trong và ngoài nước đón nhận. Anh nghĩ sao về điều đó?
+ Đấy là một thực tế, bởi những tìm tòi cách tân, đổi mới
trong thi ca từ xưa đến nay không phải bao giờ cũng được dư luận chấp nhận ngay
mà phải có một thời gian để người đọc làm quen dần với một cách đọc thơ mới,
làm quen dần với một lối tư duy thẩm mỹ mới. Thật ra, với bài thơ Tổ quốc nhìn
từ biển của tôi, nhịp điệu thơ tám chữ không có gì mới, nhưng cái mới làm xúc
động đông đảo bạn đọc chính là cách nhìn mới thông qua những hình tượng sâu sắc
hơn, và những suy tưởng khái quát hơn về lịch sử và nỗi đau biển đảo đang thao
thức, trằn trọc trong tâm hồn những người Việt Nam yêu nước hôm nay. Đây là bài
thơ mang một tinh thần mới, một tâm thế mới…nên đã nhận được sự cộng hưởng tri
âm của hàng triệu người đọc trong và ngoài nước.
- Vậy anh quan
niệm đổi mới đối với thơ là gì? Và mục đích của đổi mới rốt cuộc là vì nhu cầu
của người sáng tạo hay vì nhu cầu của bạn đọc?
+ Theo tôi, bản chất của sự cách tân và đổi mới thơ không
chỉ nằm ở sự tìm tòi về mặt hình thức nghệ thuật cấu trúc của ngôn ngữ thơ mà
điều thiết yếu căn cốt là ở sự đổi mới nội dung đời sống được phản ánh trong
thơ. Trong rất nhiều thế kỷ qua, các trường phái thơ lớn trên thế giới qua mỗi
thời kỳ đều hướng tới sự tìm tòi và cách tân thơ. Điều khác biệt và khu biệt
nhất, để có thể nhận ra được các nhà thơ cách tân của mỗi thời đại có gương- mặt-
thơ khác nhau như thế nào chính là ở nội dung đời sống trong thơ họ ở thời đại
ấy đã được phản ánh, khắc hoạ trong một trường-thẩm-mỹ nào. Và mục đích của đổi
mới thi ca cũng phải nhằm tới sự hòa quyện nhu cầu của người sáng tạo với nhu
cầu của số đông người đọc.
Trăng và thơ đọc chậm |
- Anh từng nói
rằng ở Trăng và thơ đọc chậm có rất nhiều bài viết theo kiểu thơ - đọc - chậm.
Vậy nhà thơ có thể giải thích cho bạn đọc rõ hơn về kiểu thơ - đọc - chậm
mà anh đã sử dụng?
+ Tên đề tập thơ của tôi là Trăng và thơ đọc
chậm với ý tưởng: Trăng là cái đẹp, thi ca nhiều khi cũng mang vẻ đẹp
của trăng và cách sống chậm, đọc chậm, cảm nhận chậm… khi thưởng ngoạn vẻ đẹp
của trăng và thi ca có lẽ sẽ giúp chúng ta phát hiện được nhiều điều thú vị hơn
nhất là trong đời sống đô thị công nghiệp ngột ngạt, xô bồ hôm nay. Trong những
bài thơ lục bát của tập Trăng và thơ đọc chậm tôi thường dùng dấu chấm
để tạo nhịp điệu cho mỗi câu thơ. Những năm qua, người đọc đã quen với lối thơ
lục bát mới, thường bẻ câu, xuống dòng để tạo nhịp điệu ví như đoạn thơ sau:
Đêm
Mưa
Gặp Nguyễn
Trên sông
Đầu đội nón lá
Chân không mang giày
Ông ra câu cá
Sông này
Một chiếc cần trúc
Phất đầy mưa đêm
Với kiểu thơ lục bát bẻ câu, xuống dòng như trên, nó cũng
đã tạo ra một hiệu ứng “làm mới không gian thơ lục bát”. Tương tự như thế,
nhưng tôi không bẻ câu, không xuống dòng, tôi vẫn giữ nguyên khổ thơ truyền
thống “trên sáu chữ, dưới tám chữ” và dùng dấu chấm để ngắt và biến đổi nhịp
thơ theo kiểu:
Đêm. Mưa. Gặp Nguyễn. Trên sông
Đầu đội nón lá. Chân không mang giày
Ông ra câu cá. Sông này
Một chiếc cần trúc. Phất đầy mưa đêm.
Với những câu thơ lục bát dạng này, người đọc thường phải
“đọc chậm” lại vì mỗi một đơn vị chữ khi đứng độc lập lại thường có sự “ngân
vang” và liên tưởng riêng của nó. Và tôi coi đấy như một thủ pháp mới của mình
để “làm mới” thơ lục bát. Vì thực ra, với thể thơ cổ điển này, sự mòn mỏi quen
thuộc về mặt nhịp điệu thi pháp trong cả trăm năm qua cũng đã đến lúc cần phải
có những chuyển đổi mới về mặt cấu trúc nhịp điệu câu thơ để có thể tạo ra một
âm hưởng làm tươi mới thơ lục bát mà vẫn không làm mất đi vẻ đẹp quyến rũ
truyền thống của nó.
Không chỉ ở những bài thơ lục bát, trong nhiều bài thơ
khác của tập Trăng và thơ đọc chậm, tôi đã dùng thủ pháp “làm chậm”
lại nhịp điệu thơ ở các bài viết theo thể thơ tự do không vần điệu, người đọc
bình thường khó phát hiện được điều này, bởi tôi chỉ làm một thao tác giản đơn
là ngắt câu và ngắt nhịp khi diễn đạt những suy tưởng thơ. Và theo tôi, đây
chính là một phần nghệ thuật của sự tinh tế trong thi ca hiện đại mà không ít
nhà thơ chuyên nghiệp đã từng áp dụng
ĐOÀN VĂN MẬT
Văn nghệ quân đội
|
Không chỉ đọc nhanh, chỉ đọc lướt qua, chẳng hạn các đầu
đề và một số câu gần như tình cờ, thì tôi đã có trong đầu cái điều mà tôi
định nói về thơ Nguyễn Việt Chiến, không phải về tất cả, vì nó rất phong phú,
mà chỉ về cái phần mà tôi quan tâm nhất, ấy là:
Nguyễn Việt Chiến là một người sống và làm nghề có ý thức.
Những vấn đề cấp thiết của đời sống - mà một số trong đó mang tính vĩnh cửu -
được anh quan tâm nồng nhiệt, luôn giành cho chúng vị trí hàng đầu trong thơ
mình.
Đó là những suy nghĩ và cảm xúc mang tính công dân, mang
phẩm chất của con người xã hội. Ở đây, Nguyễn Việt Chiến vừa tiếp tục làm
công việc của các thi sĩ thuộc thế hệ chiến tranh trước đây, vừa đề cập kịp
thời đến những vấn đề nóng bỏng của đất nước và dân tộc hôm nay. Và bằng chất
giọng sử thi vốn có, chỉ với một bản tráng ca Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn
Việt Chiến đã cắm lên một ngọn cờ trang trọng, trong rừng cờ của thơ ca đang
tung bay trên ngọn sóng Biển Đông, vào thời khắc mà cả Trời, Đất, Biển Cả của
Tổ Quốc đang cần đến tiếng lòng của tất cả chúng ta hơn bao giờ hết.
Đó còn là ám ảnh về cái cách con người đi qua cõi đời này:
Tiếng mưa đêm lăn vào giấc ngủ
có một người bị ướt
thức trong ta
không có lẽ nước mắt nhiều đến thế
Có phải chính số phận con người làm cho các nhà thơ luôn
mất ngủ, xưa đã thế và nay vẫn thế, dù là Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… hay ai ai đi nữa.
Có phải vì thế mà cuộc đời cần đến thi ca, và thi sĩ của
“trăng và thơ…” đã phải hơn một lần băn khoăn nghĩ về Nguồn gốc của Thi ca:
bởi con lạc – đà – thi – ca
đã từng cõng
một cơn khát trên lưng
đi qua bóng đêm
của một cơn khát lớn hơn
để vượt qua hoang mạc
Cứu được một cơn khát, nhưng liệu có cứu được thơ ca, khi
Thơ đang bị lãng quên?... Phải làm gì đây, để thơ ca vừa cứu được đời vừa
luôn luôn là chính nó?...
Tôi thật có trong lòng bao điều muốn nói, với nhà thơ
Nguyễn Việt Chiến, với mọi người và với chính mình…. Nhưng dĩ nhiên không thể
và không phải ở đây, vào lúc này.
Nhà thơ Anh Ngọc
|
No comments:
Post a Comment