Cao Minh Tèo
(Học viên Cao học, lớp Văn học Việt Nam, khóa 19,
Trường ĐH Cần Thơ)
Văn học
sau năm 1975, không phải là nhà văn đổi mới đầu tiên nhưng phải nói rằng Nguyễn
Minh Châu (1930- 1989) là một trong những nhà văn mở đường bởi tài năng và phát
huy được năng lực trực giác của mình đối với cuộc sống. Hết thảy những tác phẩm
của ông sau 1975 đã cơi nới phạm vi hiện thực của cuộc sống, bổ khuyết vào hiện
thực quen biết những mảng màu chưa được nói đến hoặc còn né tránh vì điều này
điều nọ. Trong sáng tác thời kì trước đó, Nhà văn dường như đã vượt lên khỏi
cái hằng ngày và hướng về cái đẹp đẽ của cuộc đời, cái đẹp dường như được giải
thoát khỏi gánh nặng của cái xấu, bay vượt lên khỏi cái thường nhật ví như
truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, trước đó được đưa vào chương trình phổ
thông giảng dạy nay thay bằng truyện ngắn luận đề Chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng
phải nói rằng, Mảnh trăng cuối rừng thật sự xứng đáng là một trong những
tác phẩm đã khoát lên mình bản chất chủ nghĩa anh hùng Cách mạng trong
thời kì tất cả vì tuyền tuyến, một sứ mệnh của thiên hùng ca giữ nước thế hệ Hồ
Chí Minh trong mảng văn học nghệ thuật.
Thực
chất sự đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu sau khi truyện ngắn Bức tranh
ra đời (được viết từ 1976 nhưng đến 1982 mới công bố được). Truyện ngắn Bức
tranh như một tiếng còi báo hiệu một bước chuyển mới trong sáng tạo văn
học, dự báo một quan niệm, “nhận đường mới”. một bút pháp hoàn toàn mới của
Nguyễn Minh Châu, đó còn là “lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh
họa” mà trước đó ông từng là người dụng công xây dựng. Ở giai đoạn hậu
“minh họa” này, tính chất bi kịch và mặt trái của chiến tranh đối với số phận
của con người, những phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lí, lạ lùng
thậm chí có cả sự tàn nhẫn, biết bao ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn
của con người trong cuộc sống thường nhật… để rồi thi pháp văn học về tác giả
hay nói rõ ra là hình tượng tác giả được hình thành, định hình và trở thành nền
móng tốt đẹp lâu dài trong văn học Việt Nam hiện đại.
Truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là những chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Minh
Châu về nghệ thuật và cả về con người trong cuộc sống của hình thái xã hội mới.
Đây là thông điệp của nhà văn gửi đến với độc giả một cách tự nhiên. Bên cạnh,
việc tạo dựng tình huống truyện – luận đề độc đáo “phát hiện” có ý nghĩa khám
phá, phát hiện về đời sống bởi đặc điểm lời người kể chuyện được quy định bởi
ngôi kể, điểm nhìn.
Trong Chiếc
thuyền ngoài xa người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất - xưng tôi, đồng thời
là nhân vật chính của truyện. Người kể chuyện xuất hiện với tư cách một nghệ sĩ
nhiếp ảnh- Phùng ngoài ra còn với tư cách “một người lính giải phóng từng mười
năm cầm súng”.
Với tư
cách người nghệ sĩ nhiếp ảnh, người kể chuyện đã kể lại câu chuyện về chuyến đi
công tác của mình khi được anh trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào
bộ lịch năm mới. Một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển
miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng Bảy. Tại
đây, sau nhiều ngày “phục kích” thiên nhiên, nhân vật tôi ngẫu nhiên gặp được
một cảnh đắt trời cho:“…trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh
họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như
sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn
lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng
mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm
giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi,….
Trước
vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp
thắt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh ta “tưởng chính mình vừa khám phá
thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần
của tâm hồn”. Nhưng ngay sau “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn,
do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” nhân vật tôi – nghệ sĩ nhiếp
ảnh đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi nó
còn ở ngoài xa với một “khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và
đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
Bước ra
từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông với tấm lưng rộng va cong
nhu lưng chiếc thuyền và một đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi. Với không
gian nghệ thuật gần với cuộc sống, nhân vật xung tôi bất đầu khám phá. Hình ảnh
con người hiện ra với vai trò là nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống xã
hội, để rồi nhân vật tôi bám sâu sâu hiện thực ấy để phản ánh chân thật về con
người, về những đều chưa thấy hay chỉ có thể chỉ có nghe. Sau khi đi đến chiếc
xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa
bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ!”. Còn người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, không hề kêu một
tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tại sao lại như vậy, tại sao người đàn
bàn nhẫn nhục, chịu đựng những cú thượng cẳng tay hạ cẳng chân một cách chấp
đến thế?!
Tất cả
mọi việc khiến “tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm
ra mà nhìn”. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố. Lão
đàn ông “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo
ngã xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người
đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông,
trở lại thuyền. Phía sau họ, “tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng” với
ánh mắt ngơ ngác. Hình ảnh ấy, người nghệ sĩ tưởng “Như trong câu
chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”,- một quan niện
nhân sinh, hãy cứu lấy nhân tính của con người.
Lần thứ
hai, nhân vật xưng tôi chứng kiến cảnh người chồng vũ phu hành hạ người đàn bà,
dường như bản chất người lính từng chiến đấu vì chính nghĩa đã khiến anh không
thể làm ngơ, không thể đứng bên lề với thái độ bàng quan, người kể chuyện đã
xông vào can thiệp: “tôi nện hắn (…) bằng bàn tay rắn chắc của người lính
giải phóng đã từng mười năm cầm súng”. Từ những cảnh trái ngược diễn ra
trong mắt người nghệ sĩ, ta thấy xuất hiện một phép song hành tâm lí. Đó là một
biện pháp đối chiếu khách thể và chủ thể tạo thành nghệ thuật cho tác phẩm.
Những bất ngờ của nhân vật tôi trong truyện ngắn chính là sự thảng thốt của nhà
văn trước thực tế của cuộc sống. Sự song hành tâm lí ấy, đó là một phương tiện
để Nguyễn Minh Châu bộc lộ nội tâm của mình một cách sâu nhất. Nhu đã nói ở
trên, với truyện ngắn này, nhà văn bày tỏ một quan niệm về nghệ thuật, về con
người hay một cách nói chung là mối quan hệ giữa cuộc sống hiện thực với nghệ
thuật. Với thời gian trần thuật - Thời gian diễn ra sự kiện được xác định cụ
thể, rõ ràng theo tuyến tính trước sau, không thể đảo ngược đã làm cho mạch
truyện tự nhiên, làm gia tăng tính kết nối chặt chẽ giữa các tình tiết nghệ
thuật. Tạo ra độ căng, độ nóng nhưng không xuất hiện điểm thắt nút của của cốt
truyện – hình thức bên ngoài mà chỉ gia tăng chất keo kết dính bên trong nội
tâm nhân vật, vừa hàm ý của nhà văn vừa tạo tính chất khách quan cho mạch
truyện.
Khi ở tòa án, người kể chuyện - nhân vật xưng tôi tiếp tục bị bất ngờ bởi những nghịch lí: Người đàn bà chấp nhận chịu đựng những trận đòn man rợ chứ nhất định không chịu bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu nói của người đàn bà khiến người kể chuyện “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”. Câu hỏi tại sao chưa được giải đáp!. Có lẽ, cái nhìn vốn chỉ quen nhìn thấy những nét thơ mộng của cuộc sống, người nghệ sĩ đã không thể hiểu và không thể chấp nhận được cách xử sự quái lạ của người đàn bà, thậm chí có thể người nghệ sĩ cho rằng người đàn bà này “ngu”, vừa xấu vừa ngu muội là đằng khác. Nhưng từ những câu trả lời phát ra từ cửa miệng của nhân vật người đàn bà xấu xí với Chánh án Đẩu, với nhân vật người nghệ sĩ, tác giả đã thành công trong việc khắc họa được tính chất bên trong của nhân vật. Sự cam chịu của người đàn bà khi bị chồng đánh là có lí do, có cái giá của nó, nói như Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư thì đến cái tâm sĩa răng cũng giá.
Sự đơn
giản trong cái nhìn của “tôi” còn thể hiện qua việc anh hỏi người đàn bà: “Lão
ta hồi trước bảy nhăm có đi lính ngụy không?” để tìm nguyên do của những
hành động dã man của người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà do
chính chị ta kể ở tòa án mà người kể chuyện vừa là người chứng kiến và kể lại,
vừa là người trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại với chị ta, đã dần dần cho
anh câu trả lời về những điều nghịch lí mà anh đã chứng kiến.
Người
chồng vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm” nhưng đã
trở nên vũ phu là vì khổ quá khổ với chén cơm manh áo. Còn người đàn bà van
những người đại diện công lí “đừng bắt con bỏ nó” là vì: “…đám đàn bà
làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong
ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa.
Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như
trên đất được”. Câu nói giản dị, thật thà như đếm của người đàn bà xấu xí
đã có tác động sâu xa tới nhận thức của Chánh án Đẩu và cũng là nhận thức của
người kể chuyện: “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị bao công của cái phố
huyện vùng biển” thật ra cũng là “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu”
người nghệ sĩ, một đáp án mà người nghệ sĩ – nhân vật xưng tôi được biết, đó là
sự thật phủ phàng. Tất cả chỉ vì cuộc mưu sinh, vì con cái… mà người phụ nữ lại
chấp nhận những trận đoàn của ông chồng vũ phu. Sự thật trần trụi của cuộc sống
được người nghệ sĩ khám phá, bốc dở sau khi được cấp trên phân công chụp bổ
sung vào bộ lịch năm mới một tấm ảnh “(…) cảnh buổi sáng có sương…”.
Trong
khi trước đó, người kể chuyện “tin là nếu chiếc Prati-ca trung thành với tôi
thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kì một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên
thơ nào từ trước” nghĩa là một trăm phần trăm tin vào sự cảm nhận của mình
về vẻ đẹp đối với tự nhiên, hay nói cách khác anh ta tin vào chính bản thân
mình, khả năng thâu tóm được cuộc sống một cách toàn bích, một người nghệ sĩ am
tường về cuộc sống, thậm chí đó là lời thán ca về bản thân mình. Nhưng, sau khi
chứng kiến tất cả những gì liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy, sau khi nghe
xong câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, người nghệ sĩ không giữ cái nhìn ban
đầu. Hôm đó, anh ta đã xách máy ảnh đi lang thang trên bãi biển đến tận khuya.
Sau này, mỗi khi nhìn lại bức ảnh, anh luôn có cảm giác: “Quái lạ, tuy là
ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vần thấy hiện lên cái màu hồng hồng
của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn
lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo
lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông…”. Bức ảnh trắng đen – sản phẩm linh hồn của
người nghệ sĩ, nhưng đó là kết quả cuộc thực tế. Thực tế được phản ánh chân
thật, đúng bản chất cuộc sống, và đó cái cần cho một người nghệ sĩ chân chánh.
Hay nói cách khác, hãy đổi mới quan niệm sáng tác, văn học và cuộc sống, văn
học cần chạm đến cái nhỏ nhoi nhất để cách tân tâm hồn, cái nhìn, một chủ nghĩa
không phải không tưởng mà chủ nghĩa hiện thực trong một hình thái mới. Nghệ
thuật phải đặt con người vào vị trung tâm, phải ca thán cho những ướt mơ, khát
vọng của con người.
Trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể chính là người kể chuyện ở
ngôi thứ nhất. Người kể không chỉ kể lại những điều mắt thấy tai nghe mà còn
bày tỏ những cảm xúc chủ quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và
cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Trong truyện,
vai kể có khi được chuyển sang nhân vật khác - người đàn bà và đi cùng với nó
là sự thay đổi góc độ nhìn. Tuyệt nhiên, vai trò chính vẫn thuộc về người kể
chuyện xưng tôi nói trên vì lời kể của nhân vật người đàn bà nằm trong lời kể
của người kể chuyện. Sự lựa chọn vai kể, góc nhìn như trên nằm trong dụng ý
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Và chính với lời kể, nhà văn đã thành công
trong việc xây dựng nhân vật cho câu chuyện, nhân vật đươc chạm khắc từ ngoại
hình đến việc tậm trạng, tích cách, hành động mà ở đây trong Chiếc thuyền ngoài
xa là người đàn bà, anh nghệ sĩ Phùng, đại diện cho công lí là Chánh án Đẩu.
Tính
chủ quan trước hết bộc lộ trong việc tả thiên nhiên “… một vùng phá ăn sâu vào
đất liền”. Là nghệ sĩ cho nên người kể chuyện có khả năng phát hiện, cảm nhận
những phương diện nên thơ của cảnh vật thiên nhiên. Đây là vẻ đẹp của vùng phá
nước: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da
thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sáng,
bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu
trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một
chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá- chiếc
thuyền đứng im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả”.
Đây là
vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu
của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,
đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm
lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một
con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một
vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh để
miêu tả cũng thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của một nghệ sĩ mà cụ thể ở đây là
nhà văn Nguyễn Minh Châu – “người mang thế giới cảm xúc đặc thù và trung tâm
tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc nghệ thuật”. Từ việc miêu tả trên, chúng ta
thấy được sức mạnh của ngôn từ nghệ thuật, mà ở đây sự tài hoa, sự đặc tả của
nhà văn trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật nhằm thể hiện quan điểm của bản
thân mình về đời sống. Không chỉ tinh tế ở cách dùng từ ngữ, mà các biện pháp
nghệ thuật như ẩn dụ (Chiếc thuyền ngoài xa), biểu trưng, chúng tạo nên một giá
một giá trị thẩm mĩ cao cho tác phẩm.
Tính
chân thực thể hiện rõ nhất trong việc miêu tả tâm lí. Cũng như, các nhân vật
nghệ sĩ trong những tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu, người kể chuyện- nghệ
sĩ Phùng tỏ ra là người có đời sống nội tâm phong phú. Những trạng thái tâm lí
của người kể chuyện hết sức đa dạng. Trước hết, là sự rung động trước vẻ đẹp
của thiên nhiên được bộc lộ trực tiếp ngay khi miêu tả đối tượng: “Vùng phá
nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu
đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không
xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp
xuống và như ngưng đọng lại” hoặc khi kể lại những khoảnh khắc đứng trước
vẻ thơ mộng của phong cảnh: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi
được thấy một cảnh đắt trời cho như vậy (…) đứng trước nó tôi trở nên bối rối,
trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.”
Có khi
là nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài thấm đẫm trong giọng kể:“Thường
thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi
lại. Cuộc sống cứ lênh đênh kắp cả một vùng phá nước mênh mông. Cưới xin, sinh
con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không
có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết ở vào một
khoảng đất nào.”
Khi kể
lại những việc được chứng kiến, người kể chuyện luôn bộc lộ thái độ, cảm xúc
của mình một cách chân thành và thường bộc lộ trực tiếp bằng những từ ngữ chỉ
trạng thái tâm lí gay cho người đọc một thiện cảm đặt biết, lôi kéo tâm hồn
người đọc cùng căng theo tâm lí nhân vật:“tôi kinh ngạc đến mức trong mấy
phút cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “tôi cảm thấy (…) ngột ngạt quá.”
Ngoài
ra, tính chân thực còn được thể hiện qua tính hướng nội của lời kể: Trong lời
kể thường có những từ ngữ miêu tả trực tiếp các hành vi bên trong, các ý nghĩ,
cảm xúc, cảm giác của nhân vật: “Tôi trở nên bối rối…, tôi tưởng chính mình
vừa khám phá thấy…, tôi chắc mẩm…, tôi kinh ngạc…, tôi cảm thấy…, tôi mới sực
nghĩ ra…,” v.v…
Còn khi
diễn tả những gì không thể trực tiếp quan sát được, người kể chuyện thường dùng
những từ ngữ có tính chất phỏng đoán: “khuôn mặt (…) dường như đang buồn
ngủ”, “có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết”, “người đàn bà
dường như lúc này mới thấy đau đớn”, “hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra
bề ngoài”.v.v…Các sự kiện trong truyện được kể lại từ chính điểm nhìn chủ
quan của người kể, những cảm xúc, suy tư trước cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống
con người được chính người kể bộc lộ trọn vẹn và sâu sắc, độc đáo.
Trong Chiếc
thuyền ngoài xa, sức thuyết phục của những thông điệp mà tác giả Nguyễn
Minh Châu muốn gửi gắm có thể sẽ bị giảm sút nếu những hạn chế không được khắc
phục bằng một số thủ pháp: Thứ nhất là chuyển vai kể và điểm nhìn nhưng vẫn
không làm mất đi vai trò của vai kể chính. Khi chuyển vai kể làm tăng tính
khách quan cho câu chuyện: Cách ứng xử kì lạ của người đàn bà khiến người kể
chuyện từ kinh ngạc đến phẫn nộ và không hiểu nổi. Nguyên nhân đã được lí giải
bằng chính lời kể của người đàn bà về cuộc đời mình. Lời kể của nhân vật này
không chỉ giải thích cho cách ứng xử kì lạ của chị ta mà còn giúp người nghe
hiểu được phần nào nguyên nhân của hành động vũ phu ở người đàn ông. Lời kể ấy
giúp cho Phùng, Đẩu và cả chúng ta nhận ra cuộc đời người đàn bà này không hề
đơn giản, suy nghĩ của chị ta không phải là cái sự lạc hậu như chị ta nói mà là
của một người thấu hiểu các lẽ đời. Lời kể ấy còn khiến ta cảm động trước lòng
vị tha, đức hi sinh của người đàn bà khốn khổ. Điều quan trọng hơn nữa là nó
mang lại ấn tượng về tính khách quan cho câu chuyện, bởi đây là lời của nhân
vật tự kể về cuộc đời mình, tự nói lên những suy nghĩ của mình.
Thứ hai
là đưa vào lời người kể chuyện những đánh giá, những cách nhìn nhận khác nhau
về cùng một vấn đề. Ví như, hành động của người đàn ông, người kể chuyện cho đó
là hành động tàn nhẫn, anh đã nghĩ có thể lão ta độc ác là do đi lính ngụy.
Thằng Phác cũng căm phẫn hành động của cha và nó đã bảo vệ mẹ bằng cách đánh
người cha của mình. Cô y tá ở trạm xá thì “kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ
thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng này- do phong tục để lại”.
Còn người đàn bà thường xuyên bị chồng đánh đập lại cho rằng chồng mình trở nên
độc ác như vậy là vì hoàn cảnh. Chị xác nhận: “Lão chồng tôi khi ấy là một
anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Qua
những cách nhìn khác nhau ấy về người đàn ông, người đọc nhận thấy không thể
nhìn nhận, đánh giá một con người một cách đơn giản, một chiều mà cần phải tìm
hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết
luận về tính cách hay phán xét họ. Người đàn ông ấy vừa đáng bị lên án bởi tính
vũ phu nhưng anh ta cũng có chỗ đáng được cảm thông, chia sẻ, bởi xét đến cùng,
anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống quá khắc nghiệt. Con người,
hay nói chính xác nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài bị là nạn nhân của cuộc sống,
mỗi nhân vật thuộc một nấc thang khác nhau.
Qua
những cái nhìn khác nhau của các nhân vật, đều là sự khúc xạ cái nhìn của tác
giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện
là một nghệ sĩ đã từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng
chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém
phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc
chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa
bình, cuộc chiến đấu này đã làm cho nhiều nhà văn từng trăn trở, ví như Nguyễn
Huy Thiệp chẳng hạng.
Đưa vào
trong lời kể chuyện những cách nhìn khác nhau, cái nhìn chủ quan của vai kể đã
được khách quan hóa, tạo ra tính đối thoại, thể hiện khuynh hướng dân chủ hóa
của văn học. Nhà văn Nguyễn Minh Châu không áp đặt thông điệp của mình cho
người đọc mà bằng cách để cho vấn đề hiện lên một cách đa chiều, nhiều khía
cạnh buộc người đọc phải nhập cuộc để cùng tìm câu trả lời với tác giả.
Lời kể hay
tả trong lời người kể chuyện đều thấm đượm chất trữ tình. Chất trữ tình thể
hiện rất rõ trong lời tả thiên nhiên. Nhiều đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của vùng
phá nước: Thiên nhiên của Chiếc thuyền ngoài xa là sự phát hiện chất thơ
trong những cái tưởng như bình thường, quen thuộc, khơi dậy ở con người “những
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
Lời kể
tái hiện sự việc, con người song việc tái hiện ấy nhằm hướng tới những tâm
trạng, cảm xúc, chiêm nghiệm: Những phát hiện về cuộc sống với bao nghịch lí
dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cách nhìn về cuộc sống của Phùng. Trong truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
nói riêng chất trữ tình gắn với tính triết lí
Tính
triết lí có khi thể hiện qua những suy ngẫm có tính chất triết lí được rút ra
sau một sự việc nào đó. Chẳng hạn, sau khi buộc phải đi cảnh biển có sương theo
yêu cầu của trưởng phòng, Phùng suy nghĩ về vai trò của hoàn cảnh: “Ở đời
cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho
mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì”.
Sau khi ngẫu nhiên chụp được một cảnh đắt trời cho, Phùng “nghĩ rằng với
những tay nhiếp ảnh nghệ thuật nếu không thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu
nhiên thì với tài ba bao nhiêu, anh cũng chỉ thu được những tấm ảnh …vô hồn”.
Suy nghĩ ấy chứa đựng triết lí về mối quan hệ giữa tài năng và ngẫu nhiên may
mắn. Phùng còn suy ngẫm về bản chất của cái đẹp: “Chẳng biết ai đó lần đầu
đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?”. Như vậy, qua lời kể
thuật lại những suy ngẫm có tính cá nhân nhưng những suy ngẫm ấy đã vượt qua
giới hạn của những hiện tượng cá biệt, vươn tới tầm phổ quát cho người nghệ sĩ
hướng đến, chạm vào.
Tính
triết lí còn thể hiện qua những hình ảnh mang tính biểu tuợng: Chiếc thuyền
ngoài xa với vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích không chỉ là một hình ảnh cụ
thể mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống khi người nghệ sĩ tiếp cận nó
ở cự li, khoảng cách “xa”, xa ở đây không đơn thuần về mặt không gian nghệ
thuật.. Nhưng nghịch lí mà Phùng chứng kiến đều có liên quan đến Chiếc
thuyền ngoài xa ấy là một trong muôn vàn những cảnh ngộ éo le có thể gặp
trong cuộc sống đời thường. Đó còn là biểu tượng cho những phương diện khuất
lấp, phức tạp của cuộc sống mà với cái nhìn hời hợt, đơn giản, người nghệ sĩ
khó có thể phát hiện ra. Hãy lật tung những khuất lấp lên trang giấy, để rồi
cùng cười, cùng dau đớn, cùng tìm ra một cách lí giải, cùng hướng đến cái
thiện, hướng nghệ thuật đến cái toàn bích, để người nghệ sĩ là người nghệ
sĩ của cuộc sống, của của những tâm hồn “Sống”. Hình ảnh cuối truyện: “…tuy
là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng
của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn
lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo
lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là ấn tượng chủ quan của người kể chuyện. Đó
là sự khúc xạ quan “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” của người kể
chuyện. Nó gợi ra cái nhìn mà người nghệ sĩ chân chính cần phải có: Bằng vốn
sống, sự trải nghiệm, người nghệ sĩ cần nhận ra không chỉ những gì thuộc bề mặt
mà cần thấu suốt bề sâu của cuộc sống vốn nhiều bộn bề, phức tạp.
Hình
tượng tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chính là một người nghệ sĩ luôn
hướng tới cái đẹp trong cuộc sống thực của mỗi kiếp người. Đó cũng chính là nét
đặc sắc nổi bật mà nhà văn đã thể hiện trong Chiếc thuyền ngoài xa để
rồi khi đã thật sự tìm được câu trả lời cho mỗi nhân vật, mỗi thân phận con
người, chúng ta vẫn không nguôi ám ảnh về cuộc đời của họ bởi có thể đó là
những người đang hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Những con người đó có thể là
ta….
Việc
lựa chọn người kể vai kể trong truyên ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nằm
trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Đó là những suy ngẫm, chiêm nghiệm của
Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống về cuộc đời và con
người. Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời cần phải
nhìn con người và cuộc sống một cách đa diện nhiều chiều thì mới có thể tránh
được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Có thể nói, đặc điểm lời người kể chuyện đã góp
phần đưa thông điệp của nhà văn đến với người đọc một cách tự nhiên mà thấm
thía. Đồng thời nó tạo nên phong cách ngôn ngữ riêng của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, tạo ra một nét riêng, cá nhân độc đáo đối cuộc sống con người.
Chiếc
thuyền ngoài xa được xây dựng trên
nguyên tắc luận đề, đi vào một khoảnh khắc trong cuộc sống, hướng tới một vấn
đề suy nghĩ, nhưng truyện này không có biến cố, xung đột mà chỉ có phát hiện và
ngộ ra sự thật. Cốt truyện được xây dựng trên tâm lí nhân vật cùng với hiện
sinh cuộc sống. Cốt truyện dựa vào hành động bên trong của của nhân vật. Không
phải là mới mẻ với dạng cốt truyện này, song phải nói rằng Nguyễn Minh Châu -
là “lời ái đếu cho cho một giai đoan văn học minh họa”, giảm bớt tính
ước lệ, thể hiện sự tương quan giữa nghệ thuật với hiện thực đời sống.
Tóm
lại, khi nghiên cứu về tác giả thông qua tác phẩm của họ, ta sẽ hiểu được phong
cách sáng tác. Ở từng giai đoạn trong một quá trình sáng tác, mỗi tác giả có một cái nhìn; giọng điệu; lập trường lựa chọn, phân tích, đánh giá khác nhau bắt nguồn từ một hình thái xã hội nhất định. Và khi tiếp xúc với tác phẩm là ta tiếp xúc với tác giả
của nó. Nhận ra tác giả, đồng cảm với tác giả chính là ta hiểu được tác giả và
từ đó có cái nhìn đích đáng về tác phẩm văn học của từng tác giả. Đấy cũng là
việc áp dụng hệ luận của thi pháp học để nghiên cứu tác giả thông qua tác phẩm,
vì theo GS Trần Đình Sử “Đối tượng của thi pháp học là hình thức mang tính
nội dung.” Có thể thấy, qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”; - đúng như
tác giả của nó – nhà văn Nguyễn Minh Châu nói: “… Trên con đường đến chủ
nghĩa hiện thực đôi khi chúng ta khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và
lâu dài của chính mình.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Hoa Bằng, Chuyên đề từ hệ luận của thi pháp học, nghiên cứu tác giả,
tác phẩm, Cần Thơ, 2013.
2.
Nguyễn Lâm Điên- Trần Văn Minh, Đổi mới của văn học Việt Nam
sau 1975, Cần Thơ, 2005.
3. Phong
Lê (Chủ biên), Lí luận văn học (Tái bản lần thứ 5), Nxb Giáo dục, 2006.
4.
Phong Lê, Đến với tiền trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội, 2009.
5.
Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới (Tái bản lần thứ 1),
Nxb Giáo dục, 2003.
6.
Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Thị Phương, Lí luận văn học và vấn đề suy nghĩ,
Nxb Giáo dục, 1999.
7.
Nguyễn Trọng Hoàn (Tuyển chọn), Nguyễn Minh Châu về tác giả tác phẩm (Tái
bản lần 2, chỉnh lí bổ sung), Nxb Giáo dục, 2007.
8. Bùi
Công Hùng, Sự cách tân của thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội, 2000.
9.
Dương Phong (Tuyển chọn), Nguyễn Minh Châu tuyển tập, Nxb Giáo dục,
2012.
No comments:
Post a Comment