1.
Ý nghĩa của tên gọi Việt Nam
Khi nêu lên câu hỏi ý nghĩa tên gọi Việt-Nam, tên gọi của
quốc gia chúng ta hôm nay, hẳn nhiên cần phải ghi nhận những sự kiện lịch sử
khách quan liên hệ đến việc chọn lựa danh hiệu nầy. Nhưng, trong khuôn khổ
chuyên môn nghiên cứu của tôi, tôi không đủ khả năng để đi sâu vào những chi
tiết có tính cách thuần lịch sử. Thật đáng tiếc!
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về văn hóa Việt-nam, tôi có
đọc được một bản văn mà tôi đánh giá là có giá trị văn hiến làm nền cho tư
tưởng truyền thống dân tộc - Truyện Họ Hồng Bàng trong
tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính và xuất bản vào mùa thu
năm 1492 -, và truy tìm được nghĩa của hai từ Việt và Nam
trong khuôn khổ văn hóa tư tưởng mà bản văn nầy muốn chuyển tải.
Trong truyện Họ Hồng Bàng nầy, câu kết tóm gọn như sau :
Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy #.
Muốn hiểu hai chữ Nam và Việt trong câu
nầy, dĩ nhiên chúng ta cần đọc nguyên bản văn# để nắm bắt được lý do tại
sao hai chữ ấy có thể thu tóm ý nền tảng tư tưởng mà « bản văn Sáng Thế »
ấy muốn chuyển đạt.
(Tôi đã cố gắng minh giải bản văn trên đây trong chương
III cuốn Văn Hiến, Nền Tảng Của Minh Triết do Định Hướng xb. năm 1997.
Để trình bày tiếp câu hỏi về ý nghĩa tên Việt Nam ở đãy, tôi chỉ gói gọn ý kiến
của mình trong khuôn khổ bản văn truyện Họ Hồng Bàng trong cuốn Lĩnh Nam
Chích Quái doVũ Quỳnh hiệu chính.)
a/ Bối cảnh chung
- Chúng ta xác định được là hai chữ Việt và Nam đã
được nhắc đến trong tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính
năm 1492.
- Hai chữ ấy được nêu lên cô động toàn ý nghĩa truyện Họ
Hồng Bàng. Truyện nầy lại là truyện đầu cuốn sách : nó vừa trình bày
nội dung tổng quát của sách (các truyện tiếp theo chỉ là phần khai triển
chương nầy), vừa nói lên một nội dung duy nhất và nền tảng cho văn
hóa đó là VẤN ĐỀ Ý NGHĨA CỦA NHÂN TÍNH. Trong bối cảnh văn chương đặc loại như
thế, chữ VIỆT và NAM phải được hiểu trong khuôn khổ của vấn nạn duy nhất ấy.
- Hai sự kiện khác nữa cần lưu ý nữa đó là lối hành văn đặc
biệt của các bản văn văn hóa cổ nói chung và đặc biệt của cuốn Lĩnh Nam
Chích Quái :
- Một là lối nói thi ca và tượng trưng : các chữ dùng
chỉ nhằm nói đến một nội dung duy nhất là con người và những yếu tố hình
thành, những chiều kích sinh hoạt của nó ; nhưng nội dung đặc lại nầy được
diễn tả qua những hình ảnh của những vật thể khác trong vũ trụ. Riêng đối với
cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, phần lớn các tên gọi lại là hán việt ; do
đó không những phải lưu ý âm hưởng thi ca của tên gọi, mà còn cần lưu ý âm
hưởng thi ca của tên gọi đó trong bối cảnh của văn hóa Á Đông nữa.
- Riêng đối với câu hỏi của chúng ta về ý nghĩa tên
Việt Nam, thì vấn đề lại khó khăn hơn. Chữ ý nghĩa, tiếng Pháp là signification
hàm ngụ sự hiểu biết của trí khôn con người khi đo lường một sự vật. Nó thuộc
lãnh vực lý thuyết khách quan. Trái lại, nghĩa của hai chữ Việt Nam
mà tác giả Vũ Quỳnh nêu lên trong khuôn khổ cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
không phải là ý nghĩa của một vật thể mà các bộ môn khoa học ngày nay
truy tìm. Nghĩa của hai chữ Việt Nam phải được hiểu là phân vụ
phải chu toàn, như khi ta nói nghĩa làm người hoặc là đạo
làm người. Chữ nghĩa nầy chỉ áp dụng cho vấn nạn về con người :
trong ngôn ngữ dân gian, chúng ta thường nói nghĩa vợ chồng, nghĩa
làm con hay đạo làm chồng, đạo làm con…... chẳng hạn. Liên quan
đến nghĩa của nội dung cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, tác giả là Vũ Quỳnh đã
viết rõ như thế nầy trong lời tựa :
Than-ôi!
Lĩnh-Nam có nhiều kỳ-trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc
vào ván mà rõ-ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người, ông già, con trẻ
thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở
cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu?
b/
Chữ Nam trong bản văn cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
(
Trích bản văn)
Đế-Minh
lập Đế-Nghi làm tự-quân cai-trị phương Bắc, phong Lộc-Tục làm Kinh-Dương-Vương
cai-trị phương Nam, đặt quốc-hiệu là Xích-Quỉ-Quốc.
Kinh-Dương-Vương
xuống Thủy-phủ, cưới con gái vua Động-Đình là Long-Nữ, sinh ra Sùng-Lãm tức là
Lạc-Long-Quân; Lạc-Long-Quân thay cha để trị nước, còn Kinh-Dương-Vương thì
không biết đi đâu.
(…)
Đế-Nghi
truyền ngôi cho Đế-Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên-hạ vô-sự, sực nhớ đến
chuyện ông nội là Đế-Minh nam-tuần gặp được tiên-nữ. Đế-Lai bèn khiến Xi-Vưu
tác-chủ quốc-sự mà nam-tuần qua nước Xích-Quỉ, thấy Long-Quân đã về Thủy-phủ,
trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu-Cơ cùng với bộ-chúng thị-thiếp ở lại
hành-tại. Đế-Lai chu-lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình-thế, trông thấy
kỳ-hoa dị-thảo, trân-cầm dị-thú, tê-tượng, đồi-mồi, kim-ngân, châu-ngọc,
hồ-tiêu, nhũ-hương, trầm-đàn, các loại sơn-hào hải-vị không thứ nào là không
có; khí-hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế-Lai ái-mộ quá, quên cả ngày
về.
(…)
Lạc-Long-Quân
bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu-Cơ ở một mình, dung-mạo đẹp lạ-lùng, yêu quá,
mới hóa ra một chàng nhi-lang phong-tư mỹ-lệ, tả-hữu thị-tùng đông-đảo, tiếng
đàn ca vang đến hành-tại. Âu-Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long-Quân bèn
rước nàng về núi Long-Trang.
(…)
Âu-Cơ
ở với Lạc-Long-Quân giáp một năm, sinh ra bọc trứng, cho là điềm không hay nên
đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi
trứng là một con trai; nàng đem về nuôi-nấng, không phải cho ăn, cho bú mà
tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những
anh em phi-thường.
Qua đoạn văn trích dẫn, chúng ta có được một trực giác về ý
nghĩa nhân tính của Bách Nam, những con người nguyên thủy được tạo dựng
trong ánh sáng của chân lý : Bách Nam sinh ra từ 100 trứng, là hoa trái của
tương giao giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ (Trời và Người). Bách
Nam vượt lên trên muôn sinh vật của vũ trụ (linh ưu vạn vật) : không
phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng
úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.
Nam đối nghịch với với Bắc. Đối với người ở vùng bắc bán cầu
như chúng ta, Nam tượng trưng vùng đất có mặt trời ban sự sống và ánh sáng. Bắc
tượng trưng cho bóng tối và cõi chết (nơi cư ngụ của Đế Lai, kẻ thù của Lạc
Long Quân).
Phương Nam là nước Xích Quỉ, là cộng đồng của giống
thần thiêng : từ hán-việt Xích có nghĩa là hơi ấm của mặt trời; từ Quỉ
không phải là quỉ ma (satan, diable) như ta hiểu ngày nay, nhưng là
giống thần thiêng (có thể dịch qua pháp ngữ là esprit)
Phương Nam là quê của Sùng Lãm ((Sùng là cao trọng đáng
tôn kính bên trong, Lãm là đẹp đẽ xuất hiện ra bên ngoài), của
Lạc-Long-Quân (Lạc : gợi lên hạnh phúc viên mãn (= Mỹ), Long
: nguồn gốc thần thánh (= Chân), Quân : điều
hành công minh, xử lý tốt lành cuộc sống (= Thiện).
Nơi phương Nam, Âu Cơ (Âu là nhớ nhung Ai; Cơ là lo toan
việc nầy việc kia; Âu Cơ tượng trưng cho hiện sinh con người) là con người
trước đây từng bị Đế Lai (tượng trưng cho chấp ngã, dục vọng của quyền lực
cá nhân, ham mê của cải vật chất ... ) khống chế, nay được Lạc Long
Quân (tượng trưng cho chiều kích Trời hay Thần, hoặc là Chân Thiện Mỹ)
đưa vào cùng chung sống nơi quê hương Thần Thánh (Long Trang)…...
Nơi phương Nam, con người được khai sinh bởi mối tương giao
giữa Âu-Cơ và Lạc-Long-Quân ; từ mối tương giao nguyên thủy và nền tảng đó con
người nối kết với con người trong mối tình huynh đệ.
Qua những hình ảnh tượng trưng dồn dập nói đến lý lịch thần
thiêng của con người, Nam trong hai chữ Bách Nam ở câu kết của bản văn
là nói đến chiều kích LINH THIÊNG của nhân tính ban cho mọi người, không loại
trừ một ai.
(Ở doạn văn nầy cũng như ở phần sau (trừ câu kết),
chữ VIỆT không minh nhiên viết ra thành văn. Nhưng trong ngôn ngữ hán-việt,
VIỆT có nghĩa là vượt qua, vươn lên, đưa lên cao ..., do đó, một khi Bách Nam
là con người được Thần (Lạc Long Quân) nâng lên hàng linh thiêng,
được giải thoát khỏi bóng tối và sự chết (giải thoát khỏi gông cùm
của Đế Lai) thì Bách Nam ấy cũng hàm ngụ là Bách Việt.)
c/
Chữ Việt trong bản văn cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
Nếu con người từ nguyên thủy [từ lý lịch căn nguyên=
nhân chi sơ = con người ở vườn địa đàng (x. Sách Sáng Thế của Do-thái
giáo và Kitô giáo)] là Bách Nam, thì thực tại hay hiện sinh con người là
một thân thế tranh tối tranh sáng. Một mặt vì Thần (Lạc Long Quân)
mà con người phải nối kết luôn ẩn mặt, luôn là KẺ KHÁC (không ai thấy Thần,
Thần vô phương), mặt khác con người mang gánh nặng kinh hoàng của tự do
và luôn bị bóng tối và sự chết (Đế Lai, phương Bắc) kềm hãm.
Bản văn viết :
Long-Quân
ở lâu dưới Thủy-phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc-quốc liền đi lên biên-cảnh;
Hoàng-Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân-binh trấn-ngự quan-tái; mẹ con không về
Bắc được, đêm ngày gọi Long-Quân:
- Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.
Long-Quân
hốt-nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở
Tương-Dạ; Âu-Cơ nói :
-
Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không
có gì cúc-dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không
chồng không vợ, một mình vò-võ.
Long-Quân
bảo :
-
Ta là loài rồng, sinh-trưởng ở thủy-tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất,
vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm-dương hợp lại mà có con nhưng phương-viên
bất-đồng, thủy-hỏa tương-khắc, khó mà ở cùng nhau trường-cửu. Bây giờ phải
ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi trai theo
nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì
cùng nghe, không được bỏ nhau.
Thủy-phủ ở đây là
hình ảnh của cảnh vực bên kia bờ, là chiều kích siêu nhiên vượt
lên trên thời gian không gian làm khung cho sự hiểu biết của con người. Khi nói
Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ có nghĩa là nói đến Thần vô phương,
Thần Linh vượt lên trên trật tự mà sức con người có thể đo lường, khai phá. Nói
cánh khác, con người thực tế trước mắt (hiện sinh), tuy mang ấn tích
thần thánh trong mình, nhưng đang bị ràng buộc bởi thân phận đang gặp
nguy cơ : chiều kích linh thiêng, mở ra với AI KHÁC thì ẩn kín, tưởng như
xa vời (mẹ con ở một mình), trong lúc dục vọng chỉ tìm mình, chỉ biết
mình và tham lam vật nầy vật khác (nhớ về Bắc-quốc) thì rình rập
không ngơi.
Nếu ở phần đầu, Bách Việt có nghĩa là con người được Kẻ Khác
ban phần linh thiêng vượt lên trên mọi sinh vật trong trời đất, hoặc con người
được Thần nâng lên hàng thần thánh, thì về phần mình, trong thực tại làm người
của bất cứ ai, phận vụ hoàn thành nhân tính của mỗi người (hoặc NGHĨA làm
con người) lại là luôn nhớ Long-Quân và thân thế nguyên sơ của mình
ở phương Nam. Nỗi nhớ nầy là ấn tích nguyên sơ, là Đại Ký Ức (ở
bên trên mọi ký ức bình thường) làm nên nguồn suối sâu kín trong tâm con người
. Nỗi nhớ ấy là Nền Cao Cả ở trong Tâm (Hoàng Đế) vừa có
sức can ngăn con người không cho nó rơi vào sự ác (phương Bắc, Đế Lai),
vừa nhắc con người nhớ Lạc-Long- Quân nơi phương Nam ẩn kín.
Đi vào Đại Ký Ưc để vượt lên thân phận bị trói buộc
bởi phương Bắc, bởi Đế Lai (vốn là chính dục vọng chấp ngã, chỉ biết mình,
phe mình, có nhiều vật cho mình) để tìm về Thủy- tổ phương Nam, nơi
con người được nâng lên địa vị thần linh, được mở ra với Ai Khác và nối kết với
kẻ khác, nhìn nhận và yêu thương mọi người (không phân biệt chủng tộc, ngôn
ngữ, nam nữ, trẻ già .... ) trong tương giao huynh đệ cùng chung mẹ Âu Cơ,
cùng được khai sinh do tình yêu không điều kiện đến từ Cha Lạc Long Quân.
Như thế, nghĩa làm người là chiến đấu vượt lên tăm
tối sự ác để đi về ánh sáng của yêu thương và chân lý; nói cánh khác con người
trong thực tại hiện sinh đúng nghĩa là BáchViệt.
Một khi ánh sáng và nguồn suối khai nguyên con người là
phương Nam, một khi con người ban sơ, nguyên thủy là Bách Nam (người sinh ra
và cư ngư ở phương Nam nầy), thì Bách Việt (con người tại thế đang vươn
mình tìm về nguồn ánh sáng khai nguyên) phải nhận ra Bách Nam chính là thủy
tổ của mình.
Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy.
Khi cảm ứng được nghĩa làm người như thế, con người
nhận ra mình thuộc một giống tộc Lớn, Cao cả (Hồng), ôm trọn được
mọi người (Bàng) : con người đó thuộc họ Hồng Bàng.
Theo Vũ Quỳnh, nghĩa của hai từ Nam và Việt
như thế đã được tổ tiên cảm nhận từ nơi thâm cung tấm lòng của mỗi người
(không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng người =
Đạo Tâm) và phải được chuyển đạt cho con cháu.
Xuyên qua huyền thoại họ Hồng Bàng, con cháu nên tiếp
nhận nghĩa nầy như Văn Hiến hay Cương Thường dẫn lối cho cuộc sống :
Ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên
răn nhau, thời việc có hệ ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít
bổ-ích đâu ?
2.
Định hướng sinh hoạt văn hóa trong bối cảnh của lịch sử dăn tộc Việt Nam
Trước phát biểu về định hướng cho sinh hoạt văn hóa,
tôi xin dừng lại một chút để nói đến tiền kiến tiêu cực về nội dung cụm
từ thường được nhắc đi nhắc lại trong thời gian gần đây, đó là « văn hóa
dân tộc VN». Tôi gọi là tiền kiến vì nhiều người nêu lên nội dung nầy làm
như văn hóa dân tộc VN chỉ là một thực thể thuần khiết, lý
tưởng, bất biến, có từ muôn đời, ở bên ngoài thời gian và không gian.
Kỳ thực «văn hóa dân tộc VN» có một cấu trúc gồm hai
phần gắn liền với nhau.
Một mặt nó xây dựng trên nền tảng bất biến là Chân Thiện Mỹ
(qua hình ảnh Lạc Long Quân)
làm nên cấu trúc căn nguyên của nhân tính vốn không do
lịch sử và bàn tay con người làm ra và quyết định; chính nền tảng đó là hồn
sống, là cương thường (như Vũ Quỳnh đã nhắc đến trong lời tựa cuốn Lĩnh
Nam Chích Quái) cho sinh hoạt của bất cứ cộng đồng nào cộng đồng nào
của nhân loại, trong đó cộng đồng dân tộc VN. Chính vì xác tín được cương
thường chung của toàn nhân loại (một nhân tính chung cho mọi người bất cứ
ở đâu và bất cứ thời đại nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào) mà mỗi nền văn hóa,
trong đó có «văn hóa dân tộc VN», không những biện minh cho TÍNH văn hóa
của mình, mà còn có thể nhìn nhận, tiếp thu, trao đổi, hội nhập giá trị của các
nền văn hóa của nhân loại.
Nhưng mặt khác, cũng như bất kỳ một nền văn hóa nào, «văn
hóa dân tộc VN» phải được khai sinh và còn phải được triển nở, trước hết
qua lịch sử của cộng đồng với những tài năng, sáng kiến và công trình cá biệt,
tiếp đến là qua những dòng trao đổi, hội nhập sinh động và liên tục với các nền
văn hóa khác.
Như vậy, nói theo ngôn ngữ kinh điển, chính hai yếu bất khả
phân ly - phần thể (nền tảng nhân tính chung) và phần dụng (sinh
hoạt cộng đồng xuyên qua lịch sử) - làm nên căn tính của một nền văn hóa.
Nhưng cần lưu ý rằng lịch sử thì luôn sinh động và đang và
sẽ diễn tiến. Do đó khó mà nói rằng một vài tập tục hay hình thức biểu lộ nào
đó trong một thời kỳ quá khứ nhất định lại là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa
dân tộc. Trong « văn hóa dân tộc VN » có thể có những sinh hoạt thời
trống đồng, thời cha ông mang khăn đóng áo dài…nhưng những hình thức đó không
thiết định được bản sắc cho toàn bộ văn hóa dân tộc VN.
[Trong một
kỳ Đại Học Hè Hải Ngoại dành cho chuyên viên và sinh viên trong thập niên 90, do
Trung Tâm Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức, khi nói đến phương cách biểu lộ « văn
hóa dân tộc VN », nhiều thành viên tham dự nhắc đến lối y phục khăn đóng
áo dài. Một giáo sư nói đùa một cách ý nhị: Tại sao không đề nghị lối y phục
mang khố vào thời « HùngVương » ! Không phải làm như thế sẽ vừa
xa xưa vừa chưa pha chế với Tây Tàu hay sao ?
Đây, tuy
chỉ là câu nói quá đáng, trên một bình diện nào đó, nhưng giúp người nghe ý
thức được căn tính thật sự của « văn hóa dân tộc VN », vốn vượt lên
bên trên và bên ngoài những biểu lộ giới hạn như thế.]
Để dẫn chứng về việc định nghĩa cấu trúc văn hóa nói
chung của một cộng đồng nào bất kỳ (trong đó có cộng đồng người Việt chúng ta)
mà tôi đã sơ phác như trên, tôi xin đưa ra ba đoạn văn của các tác giả VN đã
mặc nhiên đề cập đến văn hóa, những tác giả mà cộng đồng người Việt chúng ta
xem là đáng tin cậy trong lãnh vực nầy :
- Bản văn Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái của
Vũ Quỳnh (thế kỷ 15-16) ;
- Truyện Kiều của Nguyễn Du ;
- Phàm lệ cuốn Khổng Học Đăng của Phan Bội
Châu (thế kỷ 20).
* Bản
văn Truyện Họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam Chích Quái được chia làm
hai phần : Phần thể và phần dụng.
Phần thể ở phần đầu, được viết xuyên qua những hình
ảnh của huyền thoại, nhằm gợi lên những cấu trúc siêu nhiên ghi sâu trong lòng
người, vượt thời gian, không gian, làm nền cho nhân tính. Vũ Quỳnh gọi
tên phần thể nầy là CƯƠNG THƯỜNG ; trong bài tựa cuốn Lĩnh Nam Chích
Quái, tác giả viết :
Than-ôi!
Lĩnh-Nam có nhiều kỳ-trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc
vào ván mà rõ-ràng ở lòng ngýời, bia truyền ở miệng người, ông già, con
trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ
ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu?
Phần thứ hai là phần dụng với những tên gọi có nét
lịch sử và địa lý nhất định, những phong tục tập quán cá biệt của một cộng đồng
dân tộc.
Văn hóa được mặc nhiên định nghĩa như là một sự nối kết bất
phân ly giữa thể và dụng, trời và đất :
Bây
giờ phải ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi
trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có
việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau. (Trích Truyện Họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam Chích Quái)
Cũng nơi bản văn nầy, bản văn mà tôi đánh giá như là một « Sách
Sáng Thế » của văn hóa VN, chúng ta chứng kiến trước hết trực giác của tổ
tiên về nền tảng về nhân tính, tiếp đó là tài năng sáng tác độc đáo về mặt văn
chương với những cảm xúc tâm lý, những hình ảnh liên hệ đến khung cảnh địa lý,
sinh hoạt kinh tế xã hội… . Nhưng bên cạnh đó, bản văn có vô số những hình
ảnh, điển tích của hai nền văn hóa lớn trong vùng (văn hóa Ấn Độ và văn hóa
Trung Hoa). Một cách mặc nhiên, tác giả Vũ Quỳnh cho rằng việc « hội
nhập » nầy không phi bác bất cứ điểm nào về bản sắc « văn hóa dân tộc
VN » của bản văn, trái lại nó phản ảnh tinh thần vô chấp và khai phóng của
nền văn hóa chúng ta. Thực vậy, Trong truyện Bạch Trĩ của cùng cuốn sách
nầy#, Vũ Quỳnh ghi lại cuộc đối thoại có tính cách huyền thoại và tượng trưng
giữa Chu Công (là vị thầy của Khổng Tử) với sứ giả nước ta, để biện minh cho
giá trị « văn hóa dân tộc VN » của cuốn Lĩnh Nam Chích
Quái :
Chu-Công hỏi :
- Vì sao mà đến đây ?
Sứ-giả thưa :
Trời không gió lớn mưa dầm, biển không nổi sóng nay đã ba năm, ngỡ là Trung-quốc có thánh-nhân nên mới sang đây. (Trích Truyện Bạch Trĩ của Lĩnh Nam Chích Quái)
Thánh nhân,
con người đặc biệt đó là người chu toàn nghĩa làm người vốn vượt
biên giới chủng tộc, lịch sử…
Đến gặp gỡ thánh nhân ở phương bắc, phương đông hay
phương tây…, thánh nhân thời xưa hay thời bây giờ…học hỏi, hội nhập và
thực thi các giá trị cao cả làm cho con người thành thánh, đó không phải
là nhìn nhận niềm tin vào nền tảng cao siêu và bất biến của nhân tính của bất
cứ ai là người hay sao? Đó không phải là xác tín mối tương giao nhân loại và
tinh thần liên đới, đồng trách nhiệm cùng nhau hoàn thành nhân tính hay
sao ? Đó không phải là thực thi đạo lý căn nguyên « tứ hải giai
huynh đệ, trăm con trên trái đất nầy cùng sinh ra từ một bào thai chung »
hay sao ?
- Nguyễn Du# là một nhà văn hóa dân tộc, khi truyện Kiều của
thi hào đã dấy lên nơi tâm thức của người Việt qua nhiều thế hệ một nguồn
cảm hứng thi ca#. Nhưng phải chăng truyện Kiều ấy được tiếp nhận là
một gia sản văn hóa dân tộc chỉ vì nó phản ảnh tài làm thơ mô tả sâu sắc
cảnh tình cảm nam nữ lứa đôi, hoặc tài viết truyện ghi lại đầy đủ nhưng
sinh hoạt kinh tế, xã hội của cộng đồng người Việt vào đầu thế kỷ 19 ? Hoặc
phải chăng vì truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ là một bản phỏng dịch từ một truyện
Tàu qua tiếng Việt# mà nay cần xét lại giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc của
bản văn ? Cách nầy hay cách khác, không thiếu những nhà phê bình văn học
đã đánh giá truyện Kiều của Nguyễn Du xuyên qua những chuẩn mực đại loại như
thế.
Nhưng bên
trên và bên ngoài những khen chê của các trào lưu văn học, đặc biệt trong thế
kỷ 20 và những năm tháng gần đây, lời thơ của truyện Kiều luôn là nguồn cảm
hứng của bất cứ tầng lớp nào trong cộng đồng người Việt : là lời ru con,
là châm ngôn trong câu truyện hằng ngày, cũng là dấu tích lời thần thánh để bói
toán, hoặc là lời diễn đạt minh triết… Như thế, sự kiện cộng đồng người Việt
tiếp nhận truyện Kiều của Nguyễn Du như là một gia sản văn hóa không phải vì,
xuyên qua bản văn ấy, cộng đồng người Việt tiếp cận được Đại Ký Ức của dân tộc
mình, luôn nhớ cương thường làm nên cuôc sống văn hóa của mình và cố gắng áp
dụng vào bất cứ sinh hoạt nào của mình hay sao? Không phải Kiều của Nguyễn Du
cũng như Âu Cơ của Vũ Quỳnh đã cưu mang được Đại Ký Ức của dân tộc, đã trực giác
được nghĩa của cuộc sống làm người (trăm năm trong cõi người ta), vừa bị
trói buộc của Tài (kiếp hồng nhan = nghiệp phải bị ràng buộc với Đế Lai qua
hình ảnh Sở Khanh, Thúc Sinh, Từ Hải), vừa ấp ủ hy vọng cứu độ của Mệnh (lắng
nghe lời Đạm Tiên, gắn bó với Giác Duyên = tương giao gắn bó với Lạc Long Quân,
hoặc đêm ngày NHỚ Long Quân) hay sao ? Không phải chính vì trực
giác và diễn tả được nghĩa của nhân tính của mọi người trong mọi thời đại
như thế mà nhà văn hóa của dân tộc Việt Nam Nguyễn Du cũng được các dân tộc
khác trên thế giới chân nhận là nhà văn hóa, là người hiền của
nhân loại hay sao# ?
Trong phàm
lệ giới thiệu về cuốn Khổng Học Đăng, Sào Nam Phan Bội Châu viết :
"Cái danh từ học cũ chẳng phải là cái
đồ để đánh cắp áo mũ cân đai đâu? Cái danh từ học mới chẳng phải là cái
mồi để hốt gạt mề đay kim-khánh đâu...!
Hễ ai đọc bản sách nầy, trước phải lập định một cái chí khí
tự nhiên rằng: "Ta là Khổng Tử, ta là Mạnh Tử, ta là Bá Lạp Đồ (Platon),
ta là Khang Đức (Emmanuel Kant), chẳng qua đời tuy có xưa nay, đất tuy có đông
tây, mà tâm lý in như nhau, thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền;
ta chỉ là người hậu tiến của cổ nhân mà thôi. Có chí khí ấy thời đọc quyển sách
nầy mới thích.
Nếu ai chưa đọc sách nầy mà trước đã có một ý kiến sẵn: định
làm nô lệ cho người đời xưa, hay định làm nô lệ cho người đời nay thời xin chớ
đọc.
(… )
Mục đích người làm bản sách nầy là cốt phù trì nhân đạo; nếu
ai không để lòng vào nhân đạo thời xin chớ đọc"#.
Cũng
như Vũ Quỳnh và Nguyễn Du, Phan Bội Châu chân nhận nền tảng văn hóa là nhân
đạo, là cương thường hay thể chung cho mọi người, mọi nơi
mọi lúc ; nhưng nhân đạo đó được khai sinh, được diễn tả, được thực thi
do những con người, những cộng đồng khác nhau trong những thời đại khác nhau;
cũng vì thế nhìn bên ngoài (qua cách diễn tả và qua lịch sử) lại có những nền
văn hóa khác nhau, những học cũ, học mới.
Cũng
như Vũ Quỳnh và Nguyễn Du, Phan Bội Châu cho rằng tinh hoa của văn hóa được cưu
mang bởi hình ảnh của thánh hiền# là di sản chung của nhân loại :
thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền, vì đằng sau những học
cũ, học mới của các vị là nhân đạo chung của mọi người
trong đó có ta.
Nhưng truyền thống dân tộc gắn liền nội dung của sinh hoạt
văn hóa với thánh nhân, thánh hiền, đạo làm người đã hụt hơi kể từ những
đổi thay của xã hội Việt Nam vào giữa tiền bán thế kỷ 20. Cuộc tranh cãi về học
cũ - học mới như Phan-Bội-Châu đã nói đến, những nghiên cứu rất có giá trị
về cổ học và nhân chủng học … của Trường Viễn Đông Bác Cổ, những trào lưu canh
tân xã hội v.v., tất cả vốn là những sinh hoạt bên ngoài của văn hóa, đã bị
đồng hóa là toàn bộ sinh hoạt văn hóa. Từ đó, TÍNH hay hồn của văn hóa
như bị lãng quên. Trước hiện tượng đứt đoạn đó của truyền thống văn hóa dân
tộc, Phan-Bội-Châu đã mạnh mẽ lên tiếng cảnh giác như ta đọc thấy trong mấy
hàng trích từ Phàm Lệ cuốn Khổng Học Đăng ; tác giả Lê-Văn-Siêu
trong cuốn Việt Nam Văn Minh Sử Cương còn nói rõ hơn : “chỉ
lưu ý tới phần xác của nó lắm khi khô khan và trơ trẽn”#. Trong một bối
cảnh như thế, cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đào-Duy-Anh được cho
xuất bản. Ngay chương đầu, tác giả đi ngay vào định nghĩa thế nào là văn hóa.
Tôi nhắc đến cuốn sách nầy và định nghĩa nầy về văn hóa vì các tác giả nghiên
cứu sinh hoạt văn học Việt Nam từ gần một thế kỷ qua thường trích dẫn chúng như
một tài liệu cổ điển có giá trị đối chiếu.
Cuốn sách xuất bản sau cuốn Khổng Học Đăng của
Phan-Bội-Châu chưa đến mười năm, nhưng nội dung định nghĩa văn hóa của đôi
đường hoàn toàn cách biệt.
Theo Đào-Duy-Anh:
Người
ta cho rằng văn hóa chỉ là những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà
xem văn hóa có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học
thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa nhưng phàm sự sinh hoạt
về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm
thường lại không phải là ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa
chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên
ta có thể nói rằng : Văn hóa tức là sinh hoạt.
Văn
hóa đã tức là sinh hoạt thì không kể là dân tộc văn minh hay dã man đều có văn
hóa riêng của mình, chỉ khác nhau về trình độ cao thấp mà thôi. Ví dụ văn
hóa của các dân tộc Âu Mỹ thì cao, mà văn hóa của các dân tộc mọi rợ Phi châu,
Úc châu cùng các giống người Mường, Mán Mọi ở nước ta thì thấp.
Vì
lẽ gì văn hóa của các dân tộc khác nhau như thế? Vì rằng các sinh hoạt của các
dân tộc không giống nhau. Chính vì những điều kiện tự nhiên về địa lý khiến
mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt
cũng thành khác nhau vậy. Bởi thế muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc,
trước hết phải xét xem dân tộc ấy sinh trưởng ở trong những điều kiện địa lý
thế nào.
Các
điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của người ta, song
người là giống hoạt động cho nên trở lại cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và
biến chuyển những điều kiện ấy cho thích với những điều cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà cũng biến chuyển và khiến
văn hóa cũng biến chuyển theo (...)#
Trước hết Đào-Duy-Anh có công khi phân biệt một hình thái
sinh hoạt văn hóa là học thuật tư tưởng với nội dung văn hóa nói chung. Trong
quan điểm hời hợt của quần chúng, nhất là vào một thời có tranh cãi về học
cũ- học mới để có thêm kiến thức làm việc nầy việc nọ, nhất là để làm quan,
làm giàu như Phan-Bội-Châu từng nêu lên, thì việc phân biệt như thế rất có giá
trị.
Nhưng theo truyền thống văn hóa của cộng đồng người Việt mà
Vũ Quỳnh, Nguyễn Du, Phan Bội Châu trước đó phản ảnh, một truyền thống chân
nhận thánh nhân, thánh hiền là nguyên tượng của văn hóa, thì đâu có hiện
tượng xếp văn hóa trong khuôn khổ giới hạn của học thuật tư tưởng. Không phải
Vũ Quỳnh# từng định nghĩa văn hiến là cương thường phát xuất từ tâm con người
làm giềng mối cho bất cứ sinh hoạt nào của cuộc sống con người hay sao ? Trong
tâm thức người Việt Nam, ngữ nghĩa của từ thánh nhân, thánh hiền không
nhằm nói đến người có nhiều kiến thức, những người lập thuyết hay biện luận
giỏi, nhưng gợi lên hình ảnh người tuân thủ đạo làm người trong bất cứ
sinh hoạt nào của mình.
Như thế các bậc tiền bối và Đào-Duy-Anh đều có chung quan
điểm không cho rằng văn hóa chỉ là học thuật được hiểu là các lý thuyết, các
loại kiến thức và kỹ năng... mà là toàn bộ sinh hoạt của con người.
Nhưng trong phần tiếp của đoạn văn nhằm giải minh đâu là nền,
là thể làm cho sinh hoạt con người mang TÍNH văn hóa, và do đâu có sự
khác biệt của các nền văn hóa, thì rõ ràng quan điểm của Đào-Duy-Anh đã tự tách
ra khỏi truyền thống dân tộc và tâm thức sâu kín của người Việt mà văn học bình
dân cũng như các tác phẩm văn chương của các hiền nhân tiền bối phản ảnh. Mẫu
người văn hóa của Đào-Duy-Anh không còn là thánh nhân, hiền nhân, người tuân
giữ Đạo Làm Người (= nhân đạo) qua mối tương giao “linh ư vạn vật”
mà mối tình Âu-Cơ và Lạc-Long-Quân gợi lên và qua mối tương giao huynh đệ “trăm
con cùng chung một bào thai” ; mẫu người văn hóa mới không còn là kẻ “trọng
nghĩa khinh tài”, cũng không còn là người chiến sĩ của cuộc chiến giữa
Tài và Mệnh, giữa Tài và Tâm, nhưng là con người kinh tế đấu tranh
với thiên nhiên địa lý để kiếm ăn và đấu tranh kinh tế với đồng loại để sống
còn. Con người văn hóa và các nền văn hóa nay được định chuẩn qua cuộc chiến
chế ngự thiên nhiên và tranh chấp giữa người với người về kinh tế. Họ sẽ được
xếp loại cao thấp qua kết quả thành công hay thất bại theo thước đo mà các
thánh hiền Trung Hoa và Hy Lạp gọi là Đạc Điền (= Đo đất) hoặc Géométrie,
còn văn hóa truyền thống Việt Nam gọi là tương quan Âu-Cơ và Đế Lai (=
con người thuần kinh tế đi tìm, chiếm giữ và hưởng thụ của cải riêng cho mình).
Với thước đo văn hóa dựa trên việc chinh phục và khai thác thiên nhiên (địa lý)
như thế, Đào-Duy-Anh đã đánh giá văn hóa của các dân tộc Âu Mỹ thì cao, mà
văn hóa của các dân tộc mọi rợ Phi châu, Úc châu cùng các giống người Mường,
Mán Mọi ở nước ta thì thấp.
(Không
biết có phải vì cuốn sách của Đào-Duy-Anh là một trong những cuốn sách đầu tiên
trong văn học Việt Nam (?) minh nhiên nêu lên hai chữ văn hóa và được trình bày
có hệ thống, hoặc còn do nhiều lý do khác nữa, mà nhiều sách nghiên cứu văn hóa
về sau thường nêu định nghĩa từ cuốn sách nầy như một tiền đề mặc nhiên. Và sự
kiện đó không phải là chuyện đương nhiên của giới nghiên cứu văn hóa chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa duy vật, duy vật biện chứng... nhưng điều đáng ngạc nhiên
là ngay cả những người không cùng quan điểm nếu không nói là phi bác chủ nghĩa
nầy thì cũng trích dẫn Đào-Duy-Anh như một đề nghị tích cực.)
Phải chăng việc bứng gốc căn tính của văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam nằm trong một bối cảnh lịch sử xã hội quá đặc biệt
vào tiền bán thế kỷ 20 ? Trong cách nhìn sinh hoạt văn hóa thuần túy dự
trên bối cảnh xã hội, kinh tế, chính trị ... mà Đào-Duy-Anh đã gợi lên một cách
khá đầy đủ, có thể đưa ra giả thuyết rằng sự rút lui của căn tính của
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, trước hết là do chính hoàn cảnh lịch
sử xã hội riêng của cộng đồng Việt Nam lúc bấy giờ. Khi phải chung đụng với một
cường quốc thực dân Tây phương vốn tự tôn vinh họ là một dân tộc có văn hóa
cao, tâm thức và sinh hoạt văn hóa của người dân mình, đặc biệt là giới có
trách nhiệm, vì tư ái dân tộc, đã có những phản ứng hoặc tự tôn hoặc tự ti để
rồi chủ trương bảo thủ lối cũ của cha ông hay canh tân theo
nếp sinh hoạt Tây phương; điều mà Phan-Bội-Châu gọi là học cũ và học
mới. Tiếp đó cũng phải lưu ý thêm về ảnh hưởng của trào lưu của Thời Đại
Tân Kỳ (Les Temps Modernes) khai sinh và phát triển trong xã hội Tây
phương vào hậu thế kỷ 19 và phổ biến trên thế giới vào tiền thế kỷ 20... Những
nhà nghiên cứu có thể còn đưa ra nhiều dữ kiện khác nữa để dẫn chứng và biện
minh cho sự đổi thay nầy. Nhưng tất cả những nghiên cứu đó đều đặt nền tảng
trên một tiền kiến về căn tính của văn hóa đại loại như Đào-Duy-Anh đã
diễn tả. Nói cách khác, nếu dùng lối nói của Phan-Bội-Châu thì những nghiên
cứu, những tranh luận liên quan đến sự đổi thay “cái học cũ, cái học mới” vốn
đã quên lãng căn tính của văn hóa, căn tính được Phan tiên sinh gọi là nhân
đạo.
Theo Phan tiên sinh, sự đổi thay nầy không phải là một
đổi thay về hình thái, về phương cách biểu lộ hay phần dụng của nhân đạo
tùy thuộc vào hoàn cảnh tâm lý, xã hội, địa lý chính trị... nhưng là sự lãng
quên hay đúng hơn là đánh mất hồn hay căn tính của văn hóa, đó là
nhân đạo.
Vào thế kỷ 15 và 16, Vũ Quỳnh trong Lĩnh Nam Chích Quái
thì ví sự đổi thay nầy như việc Âu-Cơ quay lại với Đế Lai ở Phương Bắc và
quên đi mối tương giao với Lạc Long Quân là cha của 100 người con nhân loại.
Văn hóa lúc bấy giờ không còn là tương giao với Long Quân ẩn kín mà hiện thân
là Âu-Cơ, người Mẹ nuôi dưỡng đàn con bằng sữa NHỚ của mình trong bất cứ
sinh hoạt nào của cuộc sống (xem phần hai của truyện Họ Hồng Bàng). Rõ
nét hơn nữa, trong truyện Bạch Trĩ, qua lời đối đáp của sứ-giả của
Hùng-Vương với Chu-Công, Vũ Quỳnh nhắc nhỡ rằng căn tính của văn hóa hay
đạo làm người mà hình ảnh tượng trưng là thánh nhân vượt lên trên
những hình thái bên ngoài của sinh hoạt xã hội, chính trị, kinh tế... :
Thời Thành-Vương nhà Chu, Hùng-Vương sai sứ-thần đem qua
dâng cho nhà Chu giống chim bạch-trĩ, nhưng ngôn-ngữ bất-thông. Chu-Công sai
người dịch lại mới hiểu.
Chu-Công hỏi rằng :
- Người Giao-Chỉ cắt tóc, vẽ hình, để đầu trần, ngón chân
cong, là tại làm sao ?
Sứ-giả thưa rằng :
- Cắt tóc để tiện vào rừng; vẽ mình để làm hình rồng,
khi lặn lội dưới nước thì giao-long không dám phạm đến; chân cong để tiện trèo
cây, cày dao, đốt lửa, gieo lúa; đầu trần để khử nóng bức, ăn cau trầu để trừ
ô-uế và làm cho răng đen.
Chu-Công hỏi :
- Vì sao mà đến đây ?
Sứ-giả thưa :
- Trời không gió lớn mưa dầm, biển không nổi sóng nay đã ba năm, ngỡ là Trung-quốc có
thánh-nhân nên mới sang đây. (Trích Truyện Bạch Trĩ của Lĩnh Nam
Chích Quái)
Nếu đọc lại Truyện Kiều của Nguyễn Du, thì văn hóa theo định
nghĩa của Đào-Duy-Anh là Tài quên Tâm, là Kiều “đào hoa” sinh
hoạt với Sở Khanh, với Thúc Sinh, với kinh kệ bên ngoài trong khuôn viên gia
đình do Hoạn Thư sắp xếp, với Từ Hải ... mà quên đi một Kiều đã chết đi Tài,
vượt lên trên kiếp đào hoa để tìm lại Tâm khi tiếp cận với
Giác Duyên (= Ơn Cứu Độ) trên sông Tiền Đường.
“Tâm, thánh nhân, thánh hiền, nhân đạo, hồn của văn hóa” vắng bóng trong sinh hoạt văn hóa hầu như chính thức
kể từ giữa thế kỷ 20 đến nay. Không phải dấu tích sinh hoạt của con người về
tài trí (homo sapiens), về khả năng lao động chế ngự và quản lý thiên
nhiên địa lý (homo faber), nhưng sáng kiến và hình thức hưởng dụng tài
vật, những thú vui giải trí tiêu khiển (homo ludens) là không có chút
giá trị văn hóa nào. Nhưng xin lập lại lời của Lê-Văn Siêu : “chỉ lưu ý tới
phần xác của nó lắm khi khô khan và trơ trẽn”.
Đến đây, chúng ta tự hỏi khi nêu lên vấn đề định hướng cho sinh hoạt văn hóa, cổ súy văn hóa dăn tộc …, thì chúng ta có cần tiếp tục đưa thêm một nét riêng nào đó trong nếp sinh hoạt của cộng đồng người Việt, một nét riêng trong muôn ngàn sinh hoạt như Đào Duy Anh gợi lên, để chủ trương sinh hoạt ấy là thiết yếu như thiên hạ thường làm hay không ?
Hay chúng ta đề nghị với nhau trước hết nên cố lắng nghe những bậc tiến bối là phát ngôn tâm hồn văn hóa của cha ông chúng ta xem họ cảm nhận ý nghĩa của văn hóa như thế nào.
NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
(Nguồn VCV)
No comments:
Post a Comment