Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, ngày 27 tháng 9 năm Kỷ
Dậu (1429) (năm Thuận Thiên thứ hai), tức là một năm sau khi lên ngôi vua, Lê
Thái Tổ đã ra lệnh cho các đại thần văn võ, công hầu đại phu tử từ tam phẩm trở
lên phải tiến cử hiền tài. Trong bài chiếu do danh thần Nguyễn Trãi vâng mệnh
vua viết có câu: “Trẫm nghĩ, muốn thịnh trị phải được người hiền tài, muốn được
người hiền tài phải do tiến cử. Cho nên người đứng đầu thiên hạ phải lo việc ấy
trước tiên”.
Là một người thấm nhuần văn hóa cổ kim, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cũng đã đặc biệt quan tâm tới việc thu hút những người có đạo đức và năng lực vào làm việc trong chính quyền nhân dân còn rất non trẻ. Nguyên khí quốc gia đã rất được đặc biệt chú trọng vun đúc ngay từ “cái thuở ban đầu dân quốc” ấy.
Gia Cát Khổng Minh, bậc tài
danh đệ nhất thời Tam Quốc bên Trung Hoa từng có câu: “Phép trị nước
giống như phép trị mình. Phép trị nước là cốt ở nuôi thần (một trong ba thứ quý
báu của con người: tinh, khí, thần), đạo trị nước cốt ở cất nhắc các bậc hiền
tài. Đó là nuôi thần để cầu sống, cất nhắc nhân tài để cầu yên”. Cũng tư duy
theo cách như vậy, trong bài Nhân tài và kiến quốc đăng trên Báo Cứu
Quốc số 91 ra ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Kiến thiết cần có nhân
tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn,
khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển nhiều thêm.
Chúng ta cần nhất bây giờ
là:
Kiến thiết ngoại giao.
Kiến thiết kinh tế.
Kiến thiết quân sự.
Kiến thiết giáo dục.
Kiến thiết ngoại giao.
Kiến thiết kinh tế.
Kiến thiết quân sự.
Kiến thiết giáo dục.
Vậy chúng tôi mong đồng bào
ai có tài năng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp
ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên
cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”.
Trước đó, ngày 27/9/1945,
đến với Đại hội đại biểu thanh niên Hà Nội, Bác Hồ đã thẳng thắn tuyên bố: “Các
anh em nếu đến đây để đợi nghe một bài diễn văn bóng bẩy, hoa mỹ thì các anh em
sẽ thất vọng. Những lời tôi nói với anh em sẽ chỉ rất giản dị, rất thiết thực.
Tôi sẽ không khen ngợi anh em, mà chỉ chú ý vạch ra những khuyết điểm của anh
em…”. Và sau khi nêu ra những khuyết điểm cụ thể, Bác Hồ đã chỉ ra rất rành rẽ
những biện pháp nhằm khắc phục chúng: “Việc cần trước nhất là làm thống nhất
các tổ chức thanh niên. Mỗi giới thanh niên có một nguyện vọng, quyền lợi,
đường lối phát triển riêng. Bây giờ không phân biệt, giới nào cũng phải đứng
chung trong một tổ chức duy nhất. Nhưng điều đó không phải sẽ cột chặt tất cả
sự hoạt động riêng của mỗi giới, không cho tự phát triển, miễn là những hoạt
động ấy không đi ngược lại với hướng hoạt động chung của toàn thể. Sau đó, việc
nên chú ý đến là sự định rõ những công việc và nhiệm vụ của thanh niên như là:
đi sâu vào quần chúng để san sẻ những thường thức về chính trị và quyền lợi
công dân; ủng hộ Chính phủ không phải chỉ bằng những lời hoan hô suông thôi, mà
cần phải một mặt giải thích cho dân chúng về những nỗ lực của Chính phủ, một
mặt phê bình, giám đốc, tham gia ý kiến vào công việc của Chính phủ…”.
Còn trong bài đăng trên Báo
Cứu Quốc số 58, ra ngày 4/10/1945 với bút danh Chiến Thắng có nhan đề Thiếu
óc tổ chức - một khuyết điểm lớn trong các ủy ban Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng nhắc nhở: “Việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều
kiện quá khắt khe. Miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt
gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng
được. Tài to thì ta dùng vào việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng
lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy.
Biết dùng người như vậy, ta
không lo gì thiếu cán bộ.
Một điều thiếu sót nữa là
trong khi làm công tác, kế hoạch đã sơ sài, phân công đã không sáng suốt, rồi
sau khi làm lại không kiểm điểm lại.
Ta thường có tính tới đâu
hay tới đó, xong việc thì thôi không biết ưu điểm hay khuyết điểm của mình, làm
như thế mong tiến sao được.
Cán bộ chăm chỉ làm việc
chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp. Phải cần mà phải cẩn nữa”.
Trong bài nói chuyện với
đại biểu các báo chí về nội trị, ngoại giao nước nhà ngày 6/10/1945 (đăng trên
Báo Cứu Quốc số 61 ra ngày 8/10/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Chính phủ Dân chủ Cộng hòa lâm thời là công bộc của dân. Anh em trong Chính
phủ, ai là người có tài năng, có đức hạnh, giúp đỡ cho dân, cho nước, tất nhiên
là được quốc dân hoan nghênh. Là người này hay người khác cũng thế, ai là dân
đều có quyền giúp đỡ.
Nước ta đã là một nước Dân
chủ Cộng hòa, chính quyền đã ở trong tay dân, nhân dân hoan nghênh người có
tài, có đức gánh vác cho dân thì người đó đảm nhận trách nhiệm…”.
Lại nhắc tới chuyện vua Lê
Thái Tổ ngay khi vừa lên ngôi đã rất thao thiết kêu gọi quần thần tiến cử người
tài. Tờ chiếu đã dẫn còn có đoạn:
“Thời đại thịnh trị xưa
kia, người hiền ở triều rất đông đúc, người nọ nhường người kia. Cho nên ở dưới
không sót tài, ở trên không bỏ việc, làm nên thịnh trị yên vui…
Nay trẫm gánh vác trách
nhiệm nặng nề, sớm khuya kính cẩn lo sợ, như đứng bên bờ vực thẳm, chỉ vì chưa
tìm kiếm được người hiền tài giúp đỡ trị nước. Vậy ra lệnh cho các đại thần văn
võ, công hầu đại phu tử từ tam phẩm trở lên, mỗi viên tiến cử lấy một người, ở
trong triều hay ngoài thôn dã, đã làm quan hoặc chưa làm quan. Người nào có tài
năng, tri thức văn võ, có thể cai trị dân chúng, thì trẫm sẽ tùy tài bổ dụng…
Tuy vậy, nhân tài ở đời cố
nhiên là không ít, nên đường lối tìm người cũng không phải chỉ có một phương.
Nếu có ai ôm ấp tài lược kinh bang tế thế nhưng vẫn chịu khuất ở hàng quan
thấp, không có người tiến cử cho, cùng là những hào kiệt bị vùi dập ở bụi bờ,
hay lẫn lộn trong quân ngũ, nếu không tự đề đạt thì trẫm làm sao biết được? Từ
nay về sau, các bậc quân tử, có ai muốn theo ta, đều cho tự tiến cử…”.
Cũng trong tinh thần ấy,
hơn 5 thế kỷ sau, ngày 20/11/1946, trên Báo Cứu Quốc số 411, đã đăng bài
viết Tìm người tài đức ký tên đích danh “Chủ tịch Chính phủ Việt Nam, Hồ
Chí Minh” với nội dung như sau:
“Nước nhà cần phải kiến
thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không
thiếu người có tài, có đức.
E vì Chính phủ nghe không
đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết
điểm đó tôi xin thừa nhận.
Nay muốn sửa đổi điều đó,
và trọng dụng những người hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi
nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo
cáo ngay cho Chính phủ biết.
Báo cáo phải nói rõ: tên
tuổi, nghề nghiệp, nguyện vọng và chỗ ở của người đó.
Hạn trong một tháng, các cơ
quan địa phương phải báo cáo cho đủ”.
Chính nhờ tư duy vừa truyền
thống vừa canh tân trong việc thu phục hiền tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tập hợp được đông đảo nhân tâm và sĩ khí của
dân tộc. Không chỉ các nhà cách mạng theo đường lối vô sản mà cả những nhân sĩ
trí thức mang nặng tâm lý cổ truyền cũng tụ về cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh để lo
lắng việc nước.
Sách sử còn ghi việc Cụ
Huỳnh Thúc Kháng, sau năm 1945 đã ở tuổi “cổ lai hy” nhưng khi nhận được lời
mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cất công ra Hà Nội, thoạt đầu chỉ “bày tỏ
một vài ý kiến, còn việc gì khác thì không thể nhận”. Thế nhưng, sau khi gặp gỡ
và trò chuyện với Bác Hồ rồi, thì Cụ Huỳnh đã thay đổi ý định và đồng ý làm Bộ
trưởng Bộ Nội vụ trong thành phần Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Cộng tác với
Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa lâu nhưng với Cụ Huỳnh, đó đã là người tri kỷ.
Tình cảm và ứng xử của Bác
Hồ với tất cả những hiền tài thuộc các thế hệ đều tận tình, chu đáo. TS Lê Thị
Muội, con gái cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, cho tới giờ vẫn không thể quên được, một
lần, biết được tin đồng chí Lê Duẩn ốm, Bác Hồ đã “sang ngay số 6 Hoàng Diệu
thăm. Là vị lãnh tụ tối cao của đất nước nhưng Bác không vào phòng khách, cứ
ngồi dưới cầu thang chờ người bác sĩ khám xong cho đồng chí Lê Duẩn mới ra gặp
để hỏi thăm tình hình”…
Còn đây là hồi ức của chị
Nguyễn Thanh Hà, con gái Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: “Một điều hạnh phúc và may
mắn nhất của gia đình tôi là được Bác Hồ yêu thương và thỉnh thoảng được gặp
Bác. Bác đã đến nhà tôi mấy lần, và cứ mỗi lần như vậy cả gia đình tôi vui như
ngày hội, đến cả tháng sau vẫn còn náo nức. Cũng như đối với tất cả mọi người
dân Việt Nam khác, Bác là thần tượng của Ba, nhưng có một cái gì đó rất thân
thiết, gần gũi và cảm thông. Hồi đó, Ba hay vào báo cáo công việc với Bác, mỗi
khi ra về, ông thản nhiên đút bao thuốc hút dở của Bác vào túi, và Bác coi như
không để ý - thế là hôm đó các chú ở nhà lại được một bữa vui…”.
Cách đối xử chân tình và
thân mật như thế luôn gây được ấn tượng đặc biệt sâu đậm và những người cộng sự
gần gụi của Bác dù gặp khó khăn trong công việc đến đâu cũng luôn luôn đau đáu
một niềm cố gắng, làm sao hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ Bác giao. Không chỉ biết
thu hút hiền tài về phụng sự cách mạng, Bác Hồ còn rất biết cách sắp xếp cán bộ
để những người hiền tài có thể cống hiến lâu dài nhất và nhiều nhất cho cách
mạng. Đó có lẽ cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất giúp cho
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, dù từng phải đối mặt
với vô vàn thách thức khó khăn to lớn.
TRẦN THANH TỊNH
ANTGCT
No comments:
Post a Comment