Bài này đã đăng trên Tuần
báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 64 và 65, ngày 28/5 và 04/6/2009.
Từ đó đến nay chưa nhận dược một lời phản biẹn nào từ phía GS Phan Huy Lê hoặc
của độc giả. Nay chúng tôi biên tập lại và công bố trên mạng
Internet
Tháng 12 năm 2012
Tác giả
PHẦN THỨ NHẤT
Đầu
năm 2003, trong bài Phải chăng “nạn cống vải“ là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cuộc khởi nghĩa của Mai thúc loan năm 722 đăng liên tiếp ba kỳ
trên tạp chí Thế Giới Mới, tác giả Lê Mạnh Chiến (LMC) đã bác bỏ mọi luận
cứ của giới sử học cho rằng “nạn cống vải” (nghĩa là ách lao dịch nặng nề, mà
theo các nhà sử học thì mỗi năm, hàng ngàn nông dân phải gánh quả vải
tươi sang kinh đô Tràng An để cống nạp cho nhà Đường) là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan.
Trong
suốt 6 năm qua, Hội Khoa học Lịch sử không biểu lộ một phản ứng nào. Gần đây
(tháng 3 -2009), GS Phan Huy Lê (PHL) công bố những bài viết mới về Khởi
nghĩa Mai Thúc Loan. Trong bài này, chúng tôi bày tỏ một phần cảm tưởng
sau khi đọc các bài của GS Phan Huy Lê. Tuy chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử không
trực tiếp phản bác các luận cứ của LMC nhưng ông đã tự bào chữa một cách
gián tiếp, nhiều khi rắc rối và xuyên tạc, khiến độc giả bị lạc hướng, tưởng
như LMC đã phạm nhiều sai lầm và PHL đúng từ đầu đến cuối mặc dầu ông ta là
người chịu trách nhiệm chính của câu chuyện hoang đường về ”nạn cống vải”. Vì
vây, trước khi thảo luân về các bài của PHL, chúng tôi xin cung cấp một số
thông tin về bối cảnh ra đời của chúng.
I. Những
bài báo đáng chú ý của Lê Mạnh Chiến viết về “nạn cống vải”
Từ
trước năm 1970 đến nay, các sách lịch sử mới biên soạn đều khẳng định rằng,
“nạn cống vải” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Theo
các nhà sử học, điều này đươc ghi trong thư tịch Trung Quốc, và họ còn trưng
dẫn các nguyên do và chứng cứ làm cơ sở cho “phát hiện “ của mình, đại để như
sau:
1. Quả
vải là một đặc sản chỉ ở Việt Nam mới có, Trung Quốc không có nên triều đình
bên ấy phải lấy quả vải từ nước ta về ăn. Vùng Hoan Châu (Nghệ - Tĩnh) thời
thuộc Đường là nơi có quả vải ngon nhất và nhiều nhất nên phải hứng chịu “nạn
cống vải”.
2. Dương
Quý Phi – người đàn bà được Đường Huyền Tông sủng ái nhất – rất thích ăn quả
vải, vì vậy, ông vua này bắt nhân dân Hoan Châu phải gánh sang kinh đô Tràng An
nộp cống để cung cấp cho bà ta.
3. Mai
Thúc Loan là một trong hàng ngàn dân phu phải gánh vải nộp cống, và, khởi đầu
từ một hành động chống đối bột phát, ông đã trở thành lãnh tụ của cuộc khởi
nghĩa giành độc lập hồi đầu thế kỷ 8
4. Cuộc
khởi nghĩa Mai Thúc Loan tuy bị dập tắt nhanh chóng, nhưng nó đã làm cho “nạn
cống vải” phải chấm dứt.
Tháng 3 năm 2003, Lê Mạnh Chiến (LMC) đã công
bố bài Phải chăng “nạn cống vải “ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Thế Giới Mới, số 526, 527, 528) trong
đó, ông đã bác bỏ mọi dẫn chứng và lý lẽ của các nhà sử học. Ví du, LMC đã
chứng minh:
1. Quả
vải là đặc sản của miền nam Trung Quốc. Nước ta tuy có quả vải nhưng không ngon
bằng và cũng không nhiều. Quả vải ở Hoan Châu càng ít và chua, vải thiều ở Hải
Dương là giống của Trung Quốc, mới xuất hiện ở Hải Dương từ những năm cuối thế
kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20.
2. Dương
Quý Phi thích ăn quả vải, nhưng bà này sinh năm 719, còn khởi nghĩa Mai Thúc
Loan thì bị dập tắt năm 722, nên không thể có việc Mai Thúc Loan đi cống
vải để phục vụ Dương Quý Phi.
3. Mai
Thúc Loan và đồng bào của ông không thể gánh quả vải sang Tràng An vì đường quá
xa (hơn 4000km nếu tính theo đường thẳngn trên thực tế thì còn dài hơn
nhiều, không dưới 6000km), nếu đi được bộ 30km/ngày thì phải mất ít nhất là 7
tháng, mà quả vải thì chỉ sau dăm ngày đã hỏng.
4. Sau
khi khởi nghĩa Mai Thúc Loan bị dập tắt, Dương Quý Phi vẫn ăn vải, có nghĩa là
“nạn cống vải” vẫn còn, chứ không phải như các nhà sử học đã nói. Tuy nhiên,
vải cống này lấy từ miền nam Trung Quốc, được các kỵ sĩ chở đến lẻ tẻ, không có
chuyện hàng ngàn người (dù là trên đất Trung Quốc) còng lưng gánh vải lũ lượt
đi một mạch đến Trường An như các nhà sử học đã khẳng định rồi ghi hẳn vào sách
giáo khoa và các sách tra cứu về lịch sử.
Như vậy, tất cả những nguyên do, những
chứng cứ mà các nhà sử học đưa ra để khẳng định tính xác thực của “nạn cống
vải” đều bị LMC bác bỏ hoàn toàn. Do đó, ông khẳng định là Mai Thúc Loan không
hề đi phu gánh vải sang kinh đô nhà Đường, cuộc khởi nghĩa của ông chẳng liên
quan gì đến “nạn cống vải”. Ngoài ra, LMC cho rằng, ngay cả nếu câu chuyện “Mai
Thúc Loan làm phu cống vải” là có thật thì việc coi đó là nguyên nhân dẫn
đến cuộc khởi nghĩa vẫn là một ý kiến sai lầm, hạ thấp tầm vóc lịch sử của Mai
Thúc Loan.
Trước
những chứng cứ rành rành có cơ sở thực tế và có cả cứ liệu lịch sử vững chắc
của LMC, các nhà sử học giữ im lặng, không thể phản bác nhưng cũng không lên
tiếng thừa nhận sai lầm.
Đến
năm 2005, vì thấy các nhà sử học vẫn im hơi lặng tiếng và sách giáo khoa lịch
sử vẩn tiếp tục dạy những điều sai về khởi nghĩa Mai Thúc Loan, LMC viết bài
“Đừng gia hạn cho sai lầm trong sách giáo khoa”, đăng trên báo Người Đại biểu
Nhân dân sô 92 và 94 (ngày 10 và 13/6/2005) nhằm kêu gọi lương tâm của các nhà
sử học, đừng tiếp tục in sách và giảng dạy sai về “nạn cống vải” nữa.
Cuối
năm 2005, một độc giả của báo Người Đại biểu Nhân dân đã yêu cầu LMC giải đáp
một câu hỏi, đại ý là: Trong quyển Lịch sử Hà Tĩnh tập 1 (NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội – 2000), các nhà sử học hàng đầu (gồm Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê,
Hà Văn Tấn, Trương Hữu Quýnh và 4 người nữa) đã viết rằng, sách Đường-thư
có ghi: “đầu thời Khai Nguyên, vào một năm được mùa vải tươi, Mai Thúc Loan bị
bắt đi làm phu gánh vải đi cống cho triều Đường”, vậy thì các nhà học đã có cứ
liệu về “nạn cống vải” đấy chứ. Tác giả LMC đã trả lời trên báo Người Đại biểu
Nhân dân (số 240 và 24, ngày 7, 8/12/2005), trong bài Chớ nên bịa đặt
cứ liệu lịch sử. Ông LMC cho biết rằng, ông đã dùng máy tính để rà soát cả
hai bộ sách về lịch sử thời nhà Đường là Cựu Đường-thư và Tân
Đường-thư (có thể gọi chung là Đường-thư), tuy trong đó đã nhắc đến
Dương Tư Húc và khởi nghĩa Mai Thúc Loan vài lần, nhưng hoàn toàn không có chỗ
nào viết như thế, nghĩa là các nhà sử học bịa ra “cứ liệu” ấy. Hơn nữa, LMC còn
chứng minh rằng, các tác giả của Lịch sử Hà Tính tập 1 chưa đụng đến Tân
Đường-thư và Cựu Đường-thư, nên họ nghĩ rằng, Đường-thư, Cựu
Đường-thư và Tân Đường-thư là 3 bộ sách khác nhau (nhưng sự thật thì
chỉ có 2 bộ) nên trong một tác phẩm khác họ thường xuyên “trích dẫn” cả ba. Họ
chỉ biết các sách ấy qua tài liệu trung gian, nghĩa là qua những đoạn trích dẫn
từ các sách khác, của các tác giả khác, hoặc qua bản dịch trong kho tư liệu. Có
thể coi đây là một “thành tích” rất xấu xa mà các nhà sử học của chúng ta đã
dám thực hiện để “minh chứng” cho “phát hiện” của họ về “nạn cống vải”.
Trong
bài đăng trên tạp chí Thế giới mới, LMC đã chứng minh rõ ràng rằng, quả vải
cống cho Dương Quý Phi được hái từ các vườn vải ở vùng Quảng Đông rồi được các
kỵ sĩ thay phiên nhau chuyển qua nhiều trạm đổi ngựa để mang về Trường An cho
nên không thể có chuyện Mai Thúc Loan từng làm phu cống vải. Tuy nhiên, còn có
người nghĩ rằng, hình hình như đã có sách nào đó viết rằng trước thời Mai Thúc
Loan vẫn có “nạn cống vải” (theo kiểu từng đoàn người lũ lượt quảy hai sọt vải đi
bộ).
Có
lẽ vì muốn chứng minh cho thật cặn kẽ để không bị ai bắt bẻ rầy rà nữa nên đầu
năm 2008, tác giả LMC đã bổ sung tài liệu và sắp xếp lại bài viết của mình về
“nạn cống vải”. Ông đã lấy thêm cứ liệu từ An Nam chí lược, Hậu Hán thư, Tư
trị thông giám để chứng minh rằng, nạn cống vải “theo kiểu nhỏ giọt” đã có
từ thời Tây Hán, nhưng quả vải được lấy từ Lưỡng Quảng và các vùng
lân cận, thuộc đất Trung Quốc hoặc cũng có cả ở Việt nam nữa rồi được vận
chuyển bằng ngựa theo hệ thống dịch trạm, gồm các trạm nghỉ ngơi và các trạm
đổi ngựa cách nhau 5-10 dặm (mỗi dặm bằng khoảng 500m), cũng giống như việc
cống vải cho Dương Quý Phi. Như vậy, “lệ cống vải” thời Hán hoàn toàn khác xa
cái “nạn cống vải” mà các sử gia của chúng ta đã tưởng tượng cho Mai Thúc Loan.
Bài này đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2/2008
(với tiêu đề như bài đã đăng trên Thế Giới Mới)
Tóm
lại, theo kết quả chứng minh của LMC, có thể rút ra những kết luận như sau:
1) -
Miền nam Trung Quốc có quả vải rất nhiều và rất ngon nên không cần lấy quả vải
ở Việt Nam, xa hơn rất nhiều (Ngay cả khi quả vải ở Việt Nam rất ngon thì
cũng không ai làm cái việc ngu ngốc như thế)
2)
- Khi vận chuyển quả vải trên đất Trung Quốc, người ta sử dụng ngựa chuyển qua
từng trạm chứ không sử dụng các đoàn dân phu, cho nên nếu có lấy quả vải
ở Việt Nam thì cũng phải dùng ngựa, và cũng chuyển qua nhiều trạm, số người
phục dịch chỉ rải rác mỗi trạm một ít, và chỉ vất vả vài ba ngày trong mỗi đơt
(cả vụ có thể gồm dăm bảy đợt)
3)
Ngay cả khi ở Trung Quốc không có quả vải và cũng không có ngựa, mà chỉ ở Việt
Nam mới có quả vải thì dù triều đình Trung Quốc quá thèm quả vải cũng
không thể lấy từ Việt Nam về vì đường sá xa xôi, chưa đi được một phần mười
quãng đường thì quả vải đã thối rữa. Giả sử quả vải không bị thối rữa mà có thể
vận chuyển đi xa được thì cũng không thể có chuyện hàng ngàn dân phu lũ lượt
gánh gồng đi thẳng từ Nghệ An đến kinh đô Trường An, bởi vì rất nhiều điều khó
khăn phức tạp sẽ xẩy ra đồi với đoàn người lưu động nhiều tháng trên đường dài.
4)
Tuy ở Trung Quốc có quả vải rất nhiều và rất ngon, triều đinh Trung Quốc có thể
bắt dân ta “cống cây vải” để về trồng hoặc “cống quả vải” về ăn cho biết
của lạ. Cây vải thì phải gánh và chuyển qua từng chặng, không thể gánh “môt
mạch”, và cũng chỉ gánh một một ít cây cho nên số người gánh cây vải không
nhiều và không phải năm nào cũng phải gánh như thế Còn nếu muốn nếm thử quả vải
An Nam thì phải xử lý (ví dụ, ngâm muối, ngâm mật, sấy khô) nhưng như thế thì
đâu phải là “cống quả vải tươi”, và cũng không cần người gồng gánh bộ vì
có thể chở bằng thuyền bè hoặc ngựa, như mọi thứ khác vậy. Không thể dùng
cách “đánh tráo khái niêm”, biến cái “lệ cống vải” nhỏ nhặt gồm một ít “quả vải
ngâm mật” thành “nạn cống quả vải tươi” làm khổ sở hàng ngàn dân phu suốt
hơn một năm (vừa đi vừa về), để phản bác LMC.
Cuối
cùng, dù quả vải ở nước ta là ngon hay không ngon, là ít hay nhiều đều không
thể có chuyện nông dân ta từng phải gánh quả vải tươi sang Trường An (hay
kinh đô của các triều đại khác).
II. Hội
Khoa học Lịch sử do ông Phan Huy Lê đứng đầu coi thường công luận,
giữ im lặng lâu dài
Sau
khi LMC công bồ bài báo trên Thế Giới Mới, mọi người nghĩ rằng, các nhà sử học
sẽ lên tiếng phản bác nếu lý lẽ của LMC chứa đựng nhiều sai lầm, thiếu cơ sở khoa
học; và nếu các nhà sử học không phản bác được thì chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử phải nghiêm túc cải chính và xin lỗi toàn dân cả nước, ngay cả khi vị chủ
tịch này mới nhậm chức và không dính líu vào sai lầm cũng vây. Trong khoa học
và cả trong mọi lĩnh vực khác, hẳn là không có ai tránh được hết mọi sai lầm,
nhưng, nếu là người đứng đắn thì khi sai lầm đã được vạch rõ, người có trách
nhiệm về sai lầm đó phải nhanh chóng công khai thừa nhận và xin lỗi mọi người
bị ảnh hưởng của sai lầm ấy. Đó là đạo lý, là văn minh. Trong trường hợp này,
nếu ý kiến của LMC là đúng thì việc Hội Khoa học Lịch sử xin lỗi toàn dân vầ
cảm tạ LMC là điều phải làm để chứng tỏ cái lương tâm trong sáng và tinh thần
trách nhiệm của giới sử học. Bởi vì, sai lầm đã xẩy ra không hề do “điều kiện
khách quan” mà là do các nhà sử học chỉ dựa vào vài truyền thuyết cùng
với bài vè lấy ý từ một bài thơ của Đỗ Mục (nhà thơ nổi tiếng thời Đường), vội
vã cho đó là bằng chứng để khẳng định “nạn cống vải là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan” và bịa đặt thêm những nguyên do,
những “chứng cứ” hoàn toàn trái ngược với sự thật rồi ghi những điều dối trá ấy
vào các sách giáo khoa của mọi cấp, vào các sách lịch sử ở mọi thể loại. Cách
làm việc như vây là cẩn trọng hay cẩu thả, tỉ mỉ hay qua loa, cần mẫn hay lười
biếng, độc giả dễ dàng kết luận được ngay.
Vì
những lẽ vừa nêu, chúng tôi và tất cả những người quan tâm đến lịch sử đất
nước, đến văn hóa, giáo dục, đạo đức, đều coi đây là một vụ “tiêu cực” trong
khoa học, nên ai nấy đều mong chờ một bài cải chính và xin lỗi toàn dân do Hội
Khoa học Lịch sử hoặc bộ Giáo dục công bố, và tiếp theo là sửa chữa sai lầm này
trong tất cá các sách giáo khoa về lịch sử từ tiểu học, trung học đến đại học.
Hưởng
ứng bài của tác giả LMC, trên báo Thể thao & Văn hóa số 33 ra ngày
25-4-2003, ông Vương Trí Nhàn có bài Gánh quả vải đi bộ 4000km mà vải không
hỏng, tỏ ý khâm phục ý kiến của LMC và lo ngại cho môn học lịch sử trong nhà
trường.
Giới
sử học vẫn im lặng trước, hoàn toàn không có phản ứng gì.
Tháng
10 năm 2004, GS TS Kiều Thu Hoạch viết bài “Từ truyền thuyết đến lịch sử” (Trao
đổi xung quanh vấn đề “nạn cống vải”), bàn về bài báo của tác giả LMC. Vị GS
này chê LMC chỉ sử dụng những tài liệu gián tiếp qua một số từ điển thông
dụng nên không tránh khỏi còn có những hạn chế nhất định, nhưng ông không
nêu rõ đó là là nhứng hạn chế gì. Ông Kiều Thu Hoạch cho rằng, khảo cứu
về cây vải thì tốt nhất là phải sử dụng sách Bản thảo cương mục của Lý
Thời Trân (hoàn thành năm 1596). Theo chúng tôi, các bộ từ điển mà LMC đã sử
dụng như Encyclopedia Britanica của Anh, Grand Larousse
Encyclopédique của Pháp và Đại Bách Khoa Toàn Thư của Trung Quốc
đều là những sách tra cứu đầy đủ nhất của các nước ấy, là những bộ đại từ
điển lớn nhát thế giới, dung lương của mõi bộ đều lớn gấp nhiều chục
lần so với 4 tập Từ điển Bách khoa Việt Nam, đó không phải là
những từ điển thông dụng như ông Hoạch nói. Hiển nhiên là về sinh vật
học và cả dược học, các bộ đại từ điển này phải vượt xa Bản thảo cương mục
(vẫn biết, đây là một bộ sách quý của nhân loại), vì chúng được biên soạn bởi
hàng ngàn học giả, trong đó có những người đạt đến tột đỉnh của trình độ thế
giới hiện nay, sau Lý Thời Trân 400 năm. Vả lại, mọi điều hay và đúng của Lý
Thời Trân đều được gạn lọc để đưa vào các bộ từ điển này rồi.cho nên , sự chê
bai của ông Hoạch là do sự hiểu biét thiển cận của ông ấy. Tuy nhiên, điều đáng
quý là ông Kiều Thu Hoạch đã sử dụng Bản thảo cương mục để ủng hộ
lý lẽ của LMC, sau khi thừa nhận là bài báo của LMC “đã có công phát hiện vấn
đề”.
Sau
bài báo của GS TS Kiều Thu Hoạch, các nhà sử học vẫn làm ngơ.
Năm
2008, trên tạp chí Tia sáng (số 9, ngày 5-5-2008), trong bài Người
trí thức trước hết phải dũng cảm, khiêm tốn và trung thực (trang 3), Giáo
sư - Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Văn Chiển đã lên tiếng nhắc nhở:
...”Nhưng
có một câu chuyện hoang đường hay một chuyện bịa lịch sử dạy cho cấp I phổ
thông: Mai Thúc Loan vì phải gánh vải tươi cống Dương Quý Phi mà cùng nông phu
nổi dậy chống sự thống trị của nhà Đường. Câu chuyện phi lý đó đã được ông Lê
Mạnh Chiến vạch ra từ mấy năm rồi thế mà vẩn được in trong nửa triệu SGK cấp I
....Điều ngạc nhiên là câu chuyện phi lý này còn được lặp lại trong những bộ
SGK lớn hơn, ví dụ, trong tập I của bộ Đại cương lịch sử Việt Nam (trang 94)”.
Các nhà sử học vẫn tiếp tục im lặng, một sự im lặng kéo dài quá lâu, tưởng như
sẽ im lặng mãi mãi, để cho vụ việc này chìm vào quá khứ.
III.
Mánh khóe của các nhà ngụy biện
Khi
bài báo của tác giả LMC được công bố, tuyệt đại đa số độc giả đều đồng tình ủng
hộ và cho là lý lẽ rất chặt chẽ. Tuy vậy, cũng có một số người rất ít ỏi tìm
mọi cách bài xích và xuyên tạc để đi đến kết luận là LMC đã nói sai và
“nạn cống vải” kinh khủng ghê gớm thời Mai Thúc Loan vẫn có thật. Tất cả những
người ấy, không một ai đụng đến những “nguyên do và bằng chứng” mà các nhà sử
học bịa đặt ra và đã bị LMC bác bỏ hoàn toàn. Họ cố tìm cách xuyên tạc ý của
LMC, lấy một ý nhỏ của ông và bẻ queo đi rồi chứng minh ràng lý lẽ của LMC là
sai, là “không có cơ sở”. Phần lớn những người này chỉ phát biểu rải rác ở đâu
đó, nhưng cũng có 1 trường hợp viết lên báo, đó là bài “Có hay không chuyện
cống vải thời Đường” trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (số 45, tháng
2/2004) của hai tác giả Đinh Văn Hiến và Đinh Lê Yên.
Đây
là một ví dụ cụ thể về lối ngụy biện mà người ta thường dùng để “phản bác” LMC.
Xin trích dẫn vài đoạn ngụy biện ấy theo bài “Đã chứng minh được sự thực về
“nạn cống vải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan
rồi chăng?” của LMC trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (số 46, tháng 3-2004)
để thấy rõ mặt thật của hai ông họ Đinh.
Bằng cách cắt xén và bóp méo, hai ông họ Đinh đã tóm lược ý kiến của LMC
thành 3 điểm:
1. Khi Mai Thúc Loan khởi nghĩa thì Dương Quý Phi chưa vào cung (thị
sinh năm 717) nên không thể cho thị là người bắt Đường Minh Hoàng kiếm quả vài
châu Hoan về để thỏa mãn ham muốn của thị
2. Không thể có chuyện cống vải từ châu Hoan sang Trường Ân vì châu Hoan
không có vải, cây vải có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc. Một số nơi ở nước ta có
vải là về sau này, và kể cả sau này Nghệ An cũng chẳng có loại vải ngon khả dĩ
làm vật cống tiến.
3. Giả sử ở Nghệ An có quả vải ngon thì chuyên chở sang Trường An, vải
thối hết!
Rồi họ lần lượt phản bác từng điểm:
Về ý thứ nhất, ông Lê hoàn toàn đúng. Chúng tôi cũng đã nêu ý kiến này trong
cuốn “Mai Hắc Đế – truyền thuyết và lịch sử” khi xuất bản lần đầu (NXB Nghệ An
– 1997). Lúc đó, chúng tôi tiềm ẩn một giả thiết là bà Phi thích vải không phải
là Dương Quý Phi (vì cho đến khi thị vào cung với Đường Minh Hoàng thì ông đã
ngồi ngai vàng được 27 năm, thời gian này còn những ái phi khác). Một giả
thuyết thứ hai là Mai Thúc Loan khởi nghĩa sau năm 739 là năm Dương Quý Phi vào
cung. (Khi đó chưa khẳng định năm khởi nghĩa là 713).
Ở điểm 2, sau khi nêu ra một số lý lẽ, hai ông khẳng định mà không nêu chứng cứ:
Xưa
kia, trước năm –111, cây vải là cây trồng phổ biến ở Bắc Bộ nước ta (và có thể
ở Nghệ Tĩnh). Sau đó, nhờ sự ham thích của người Trung Quốc, cây vải được di
thực về Trung quốc (và cũng có thể từ Giao Chỉ vào Nghệ Tĩnh ngày nay nếu
như trước đây Nghệ Tĩnh chưa có vải).
Thời Đường, dù có cây vải ở Nam Trung Quốc, mà Hoan châu vẫn phải cống vải cùng
với Lưỡng Quảng, có thể do vải ở đây ngon hơn nên vua Đường thích. Cũng có thể
vải hai nơi ra hoa kết trái chênh vụ nhau, nên nhà Đường bắt cả hai nơi cùng
cống vải để kéo dài thời gian có vải cho nhà vua dùng. Và như vậy, truyền
thuyết cống vải hoàn toàn có cơ sở chứ không phải là chuyện hoang đường như ông
Lê nghĩ.
Về
điểm thứ 3, hai ông viết:
Còn việc không đưa vải đi xa, xin có ý kiến như sau:
Chúng tôi chưa tự tay làm, nhưng trên một bài báo đăng ở Tri thức trẻ số tháng
12/2003, KS hoá Nguyễn Văn Tuyên (nguyên giáo viên dạy hoá của Trường Đại học
Nông nghiệp II, nay là giáo viên trường PTTH bán công Nam Đàn) có viết bài nói
rằng, ông đã làm thí nghiệm về việc bảo quản quả cam, quả vải theo cách dân
gian xưa (chứ không phải là bằng nước clo hay ôzôn bây giờ) mà cam, vải vẫn
tươi 3- 4 tháng.
Đó
là chuyện nay, còn xưa kia khi khai quật một ngôi mộ cổ 230 năm tuổi, các nhà
khảo cổ đã thấy, bên cạnh xác ướp nguyên vẹn, có cả một túi trầu cau vẫn
tươi nguyên (bài ông Đỗ Hữu Ninh đăng trên Tạp chí Khảo cổ học số
51-52, xuất bản năm 1973).
Từ đó, ta nghĩ chuyện bảo quản quả vải hàng tháng trời xưa phục vụ một vị Hoàng
đế ở Thiên Triều chắc chắn sẽ làm được (tất nhiên điều này không áp dụng trong
buôn bán, vì nó có thể giá thành quá đắt)
Kết thúc bài phê phán LMC, hai ông Đinh viết (nguyên văn):
Không là nhà sử học, chỉ là những cán bộ khoa học có bỏ công nghiên cứu về Mai
Hắc Đế, đọc bài viết của hai ông (ám chỉ LMC và Vương Trí Nhàn – người viết bài
hưởng ứng), sau khi trao đổi với nhiều người, chúng tôi vẫn tin là: Như truyền
thuyết từng kể lại, đúng là vào thời thuộc Đường, nạn cống vải đã xẩy ra (dù
không liên quan đến Dương Quý Phi). Quả vải có thể được chế biến bảo quản tốt
để chuyên chở vừa bằng sức ngựa để dùng trước, đồng thời cùng các cống vật
khác, vải quả được chuyên chở bằng cả sức người. Đó là thứ vải đặc sản của Châu
Hoan, chứ không hề có sự nhầm lẫn là vải đưa về Tràng An chỉ là vải của Quảng
Đông Quảng Tây Trung Quốc. Nạn cống vải của Châu Hoan, nhờ Mai Thúc Loan khởi
nghĩa mà được chấm dứt.
Sau này, khi Dương Quý Phi vào cung, vẫn có lệ cống vải vào Đường Triều, đó là
lệ đặt ra cho nhân đân Lưỡng Quảng, không phải là nhân dân Châu Hoan.
Tác
giả LMC đã trả lời hai nhà ngụy biện họ Đinh như sau:
Chúng tôi không bàn cãi với hai ông về việc này vì ly lẽ của hai ông rất
lẩm cẩm, lại còn bịa đặt ra dẫn chứng. Hai ông họ Đinh trưng dẫn bài báo
nói về ngôi mộ cổ nhưng chưa bao gìờ đọc bài đó cũng như chưa bao
giờ đọc tạp chí Khảo cổ hoc. Chứng cứ là, bài báo đó, với tiêu đề Khai
quật khảo cổ học một ngôi mộ hợp chất ở Vân Cát (Nam Hà) đăng trên
tạp chí Khảo cổ học số 5-6, năm 1970 chứ không phải số 51-52 năm 1973
như hai ông đã chỉ dẫn. Do tình hình in ấn khó khăn trong thời gian chiến tranh
nên trong hai năm 1972 và 1973 tạp chí Khảo cổ học không ra được số nào
cả, đến năm 1974 mới ra tiếp số 13. Tác giả bài báo đó là nhà khảo cổ hoc Đỗ
Văn Ninh chứ không phải là Đỗ Hữu Ninh. Qua đây, độc giả đủ thấy rõ
đức tính trung thực của hai ông họ Đinh
…Để phản bác LMC và ủng hộ những người khẳng đinh “nạn cống vải” khủng khiếp
thời thuộc Đường mà Mai Thúc Loan là một trong hàng ngàn hàng vạn nạn nhân,
người ta chỉ có một cách là bóp méo, xuyên tạc và bịa đặt. Sau bài phê phán của
LMC, hai ông họ Đinh hoàn toàn im lặng.
Sau
đó 5 năm, ông GS Phan Huy Lê đã tiếp bước hai nhà ngụy biện
họ Đinh, xuyên tạc mọi luận cứ của tác giả Lê Mạnh Chiến ngay từ đầu để
“phản biện”, chứng minh rằng lý lẽ của Lê Mạnh Chiến là “thiếu cơ sở khoa
học, rồi mạo nhận rằng “theo kết quả tra cứu của tôi (tức PHL) thì
vào thời thuộc Đường, không tìm thấy một tư liệu đàng tin cậy nài về chế
độ cóng vải từ Giao châu hay An Nam , tức từ nước ta”
(còn tiếp)
Lê
Hà & Thái Hoàng
No comments:
Post a Comment