Chuyển sang phần 3 (Nguyên nhân khởi nghĩa và vấn đề cống quả vải), ông Phan Huy Lê viết:
Sau khi công bố những truyền thuyết về Mai
Thúc Loan phải đi phu chuyển vải cống, đã vận động đoàn phu nổi dậy chống
Đường, thì nhiều sách đã bổ sung thêm tình tiết này vào lịch sử. Từ đó có
người nêu lên hai vấn đề:
- Phải chăng nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ thu hẹp lại trong sự
bất bình của đoàn phu cống vải ?
- Chuyện nộp vải cống có đáng tin hay không khi ở vùng nam Trung Quốc có nhiều
loại vải ngon nổi tiếng và ở nước ta, cây vải tập trung ở miền đông bắc đồng
bằng và trung du Bắc Bộ, trong đó vải Thiều là giống nhập từ nam Trung Quốc. Còn
vùng Hoan Châu (Nghệ An) thì không thể có loại vải ngon ?
Về nguyên nhân khởi nghĩa, có lẽ không một
nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử lại có thể nghĩ đơn giản rằng cuộc
khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ xuất phát từ sự bất bình của một đoàn phu gánh vải
cống và như thế thì làm sao giải thích được sự tham gia, hưởng ứng rộng rãi của
các tầng lớp xã hội thời bấy giờ. Một số nhà sử học đưa thêm truyền thuyết này,
trong đó có tác giả nói rõ là theo truyền thuyết, cũng chỉ bổ sung thêm một
tình thế và nguyên do trực tiếp mà Mai Thúc Loan đã khai thác để phát động cuộc
khởi nghĩa. Tôi lấy ví dụ, trong cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, phần Bắc thuộc do
cố GS Trần Quốc Vượng viết,chương về thời Tùy-Đường (chương 8) đã dành mục
"Đất nước ta dưới ách đô hộ của Tùy Đường" để trình bày về tổ chức bộ
máy đô hộ cùng các chính sách bóc lột, vơ vét nặng nề của chính quyền Tùy,
Đường rồi sau đó mới đến mục "Nửa sau thế kỷ VIII : khởi nghĩa Mai Thúc
Loan - Mai Hắc Đế", trong đó coi chế độ đi phu cống quả vải như nguyên do
trực tiếp bùng nổ cuộc khởi nghĩa. Vì vậy nếu tác giả nào đó qui nguyên nhân
của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ vào sự bất bình, phản kháng của đoàn phu cống
vải thì dĩ nhiên là một sai lầm về lý luận cũng như thực tế lịch sử. Cuộc khởi
nghĩa Mai Thúc Loan có cội nguồn sâu xa trong chế độ bóc lột, áp bức của nhà
Đường, trong tình hình kinh tế xã hội và những mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân
dân ta với chính quyền đô hộ
Đoạn này là lời dẫn để dắt độc giả vào chuỗi ngụy biện ở phần sạu. Ngay từ mấy câu đầu tiên, chúng tôi đã thấy ngay cái mẹo Đinh Văn Hiến rồi. Chủ tịch hội Khoa học Lịch sử làm như thể LMC đã từng chất vấn truyền thuyết vậy. Nếu là người trung thực thì ba câu đầu tiên, PHL phải viết như sau:
“Sau khi giới sử học khẳng định (hay phát hiện) sai rằng Mai Thúc Loan phải đi phu chuyển vảỉ cống đã vận động đoàn phu nổi dậy chống Đường , thì hầu hết mọi sách của họ đã bổ sung thêm tình tiết này vào lịch sử, trong đó có những quyển sách do tôi (tức là PHL) viết riêng hoặc chủ biên. Từ đó tất cả các trường từ tiểu học, trung học đến đại học đều đồng loạt dạy và học theo cái sai mà chúng tôi đã phạm phải. Mãi đến đầu năm 2003, có một tác giả duy nhất là Lê Mạnh Chiến đã bác bỏ mọi lý lẽ, mọi nguyên do, mọi chứng cứ của các nhà sử học mà đứng đầu là tôi (tức Phan Huy Lê), chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử. Từ đó, ông (Lê Mạnh Chiến) yêu cầu các nhà sử học trả lời trước công luận và nếu không bác bỏ được luận cứ của ông ấy thì phải xóa bỏ chi tiết “Mai Thúc Loan làm phu gánh vải...” trong mọi sách lịch sử, trước hết là sách giáo khoa, và đính chính sai lầm này. .. Nhưng, vì nhiều lý do rất khó nói .... cho nên chúng tôi không đủ can đảm để thực hiện kiến nghị nghiêm túc của tác giả Lê Mạnh Chiến mà một số trí thức đứng đắn đã viết bài nhiệt thành ủng hộ”.
Tác giả Lê Mạnh Chiến không hề nêu câu hỏi “Phải chăng nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ thu hẹp lại trong sự bất bình của đoàn phu cống vải?” bởi vì ông đã chứng minh rõ ràng là “không có chuyện Mai Thúc Loan từng làm phu gánh vải, bởi vì “nạn cống vải” chỉ là sản phẩm bịa đặt của giới sử học, thì ông ấy có điên đâu mà nói đến “cuộc khởi nghĩa nổ ra từ đám phu cống vải”. Sau khi đã vạch rõ rất nhiều cái sai của các nhà sử học trong việc dựng nên “nạn cống vải”, ông mới vạch thêm một sai lầm nữa của họ, đại ý như sau: “Nếu câu chuyện hoang đường về “nạn cống vải” là có thật thì viêc coi đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan chỉ có tác dụng hạ thấp tầm vóc lịch sử của vị anh hùng dân tộc họ Mai”.
Tác giả Lê Mạnh Chiến cũng không hề nêu câu hỏi “Chuyện nộp vải cống có đáng tin hay không khi mà ở vùng nam Trung Quốc có nhiều loại vải ngon nổi tiếng, và ở nước ta, cây vải tập trung ở miền đông bắc đồng bằng và trung du Bắc Bộ, trong đó vải Thiều là giống nhập từ nam Trung Quốc” như PHL đã xuyên tạc. Ông LMC không bao giờ nêu câu hỏi “Chuyện nộp vải cống có đáng tin hay không....?” , bởi ông đã khẳng định là “không thể có chuyện cống vải” vì ông đã bác bỏ cái khả năng xẩy ra “nạn cống vải” ồ ạt (như giới sử học đã diễn tả), ngay cả khi Trung Quốc không hề có quả vải, còn ở Việt Nam thì quả vải rất nhiều và rất ngon. Đây là “diệu kế“ bẻ queo luận cứ của đối phương để cho mình dễ phản bác Trước đây, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã tham gia vào vụ bịa đặt cứ liệu lịch sử rồi gán cho Đường-thư, nay ông lại giả mạo ý kiến của LMC nhằm đánh lừa độc giả và dễ bề “phản bác”
Đọc đến câu hỏi của PHL “Còn vùng Hoan Châu (Nghệ An) thì không thể có loại vải ngon ? “ thì dù người khờ khạo đến mấy cũng đoán được cái “tối hạ sách” mà ông ta sắp đưa ra. Hẳn là ông sẽ chứng minh rằng Hoan Châu cũng rất có thể có quả vải ngon, rồi thế là coi như đã vạch được sai lầm trong mọi lý lẽ của LMC. Và như vậy là PHL đã bẻ gãy lý lẽ của LMC chứ gì? Than ôi, đó chỉ là cách tự ru ngủ, cách tự lừa dối mình của kẻ cùng đường.
Tiếp
đó, ông Phan Huy Lê viết:
“Về nguyên nhân khởi nghĩa, có lẽ không một nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử lại có thể nghĩ đơn giản rằng cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ xuất phát từ sự bất bình của một đoàn phu gánh vải cống và như thế thì làm sao giải thích được sự tham gia, hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp xã hội thời bấy giờ....”
Tiếc thay, ông PHL lại không thuộc nhóm nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử ấy, nên đã để cho cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra do sự bất bình của một đoàn phu gánh vải ảo, như chúng ta đã thấy trong mọi quyển sách lịch sử mà ông ta có tham gia.. Tiếp sau cái câu “Về nguyên nhân khởi nghĩa.....PHL viết một đoạn lủng củng và sai ngữ pháp gồm hơn 240 chữ (bằng hơn 2/3 trang tiểu thuyết thông thường), trong đó chúng ta chỉ nhặt được một ý khá rõ là “cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, phần Bắc thuộc do cố GS Trần Quốc Vượng viết..., trong đó coi chế độ đi phu cống quả vải như nguyên do trực tiếp bùng nổ cuộc khởi nghĩa”. Thật kỳ quặc khi câu tiếp theo lại là: “Vì vậy nếu tác giả nào đó qui nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ vào sự bất bình, phản kháng của đoàn phu cống vải thì dĩ nhiên là một sai lầm về lý luận cũng như thực tế lịch sử”. Hẳn là khi viết những dòng này, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử rất bối rối, lúng túng như gà mắc tóc nên mới hạ hai chữ “vì vậy” một cách vô lý, không đúng chỗ.
Nếu còn giữ được bình tĩnh và tính trung thực, biết hối lỗi thì ở đoạn này GS Phan Huy Lê phải bỏ bớt những chữ, những ý thừa và đầy mâu thuẫn, rối sửa lại như sau:
Về nguyên nhân khởi nghĩa, có lẽ không một nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử lại có thể nói liều rằng cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan xuất phát từ sự bất bình của một đoàn phu tưởng tượng gánh quả vải ảo đi cống, và như thế thì làm sao giải thích được sự tham gia, hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, tôi, Phan Huy Lê và một số nhà sử học khác lại không thuộc nhóm các nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử nên đã coi truyền thuyết này là sử liệu chính xác rồi ghi hẳn vào sách giáo khoa và mọi sách lịch sử khác. Tôi lấy ví dụ, trong cuốn Lịch sử Việt Nam tập I (xuất bản năm 1983, 1985, 1991) do tôi (PHL) chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn, phần Bắc thuộc do cố GS Trần Quốc Vượng viết, chúng tôi đã coi chế độ đi phu cống quả vải là nguyên do trực tiếp làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa. May mắn thay, tác giả Lê Mạnh Chiến đã vạch rõ rằng, nạn cống vải chỉ là do chúng tôi tưởng tượng ra và bịa đặt thêm các “luận cứ” mà thôi nên không thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa. Nay chúng tôi đã giác ngộ ra sự thực đó và xin lỗi toàn thể đồng bào về tội xuyên tạc lịch sử. Vì vậy nếu tác giả nào đó qui nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan vào sự bất bình, phản kháng của đoàn phu cống vải ảo thì dĩ nhiên là phạm một sai lầm về lý luận cũng như thực tế lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan có cội nguồn sâu xa trong chế độ bóc lột, áp bức của nhà Đường, trong tình hình kinh tế xã hội và những mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với chính quyền đô hộ.
Một điều rất đáng chê trách là, ông PHL chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn giáo trình Lịch sử Việt Nam tập1 thì chính ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi sai sót trong quyển sách ấy, vì nó là phải là một giáo trình nhất quán, không phải là một sưu tập gồm các bài của các tác giả độc lập. Nhưng ông ta đã đổ lỗi cho Trần Quốc Vượng, một đồng nghiệp đã quá cố, rồi coi mình là vô can và tự cho phép mình đóng vai Bao Công để phán định lẽ phải.
Sau đoạn lời dẫn ở trên, PHL sử dụng cái vốn “thông kim bác cổ” của mình, lôi ra một đống tư liệu nhằm chứng minh rằng ở Việt Nam cũng có cây vả. Ông ta viết:
Còn việc trồng vải thời bấy giờ đã có chưa thì không nên lấy bản đồ thực vật hiện đại để áp đặt vào thời xa xưa, đã cách ngày nay hơn 12 thế kỷ. Theo kết quả khai quật khảo cổ học thì trong một số di tích văn hoá Đông Sơn đã tìm thấy hạt vải cùng hạt trám, hạt na, hạt cau... .Như vậy từ thời cổ đại, vào những thế kỷ trước CN người Việt đã phát triển nghề làm vườn, trồng nhiều loại cây ăn quả, trong đó có cây vải. Đại Việt sử lược có lẽ là bộ sử đầu tiên của nước ta chép tên quả vải (lệ chi) vào năm Kiến Gia thứ 8 đời vua Lý Huệ Tông tức năm 1218 : « Vua ngự đến Cựu Kinh (tức Thăng Long) ăn quả vải ». Vào cuối thời Trần, trong các yêu sách của nhà Minh có đòi hỏi cống nộp các giống cây quý trong đó có cây vải. Năm 1386 « nhà Minh sai Lâm Bột sang đòi cống các loại cây cau, vải, mít, nhãn vì nội nhân Nguyễn Tông Đạo nói, hoa quả phương nam có nhiều thứ ngon. Vua sai bọn viên ngoại lang Phạm Đình đem sang, nhưng những cây ấy không chịu được rét, đi nửa đường đều chết khô cả ». Chính sử cũng ghi chép vào thế kỷ XV đã có địa danh mang tên Lệ Chi viên (Vườn Vải, nay tại xã Đại Lại, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), nơi năm 1442 vua Lê Thái Tông từ trần đột ngột và bọn quyền thần đã lợi dụng dựng lên vụ án thảm khốc tru di cả nhà Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong thư tịch cổ, từ Dư địa chí của Nguyễn Trãi thế kỷ XV đã nói đến quả vải ở xã Quang Liệt, đạo Sơn Nam đến Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã khẳng định "nước Nam nhiều vải nhất", nổi tiếng là vùng An Nhân, huyện Đường Hào, Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn thế kỷ XIX cũng nói đến quả vải như một đặc sản của vùng huyện Đường Hào, Đông Triều..Như vậy cây vải đã có mặt ở nước ta từ lâu đời, ít nhất là từ thời kỳ văn hoá Đông Sơn và đi vào địa danh lịch sử, thư tịch cổ từ thế kỷ XIII, thế kỷ XV. Tất nhiên, bên cạnh cây vải bản địa, sau này dân ta còn du nhập thêm giống vải Thiều ở miền nam Trung Quốc.
Trong lịch sử, bản đồ thực vật, do thay đổi khí hậu kết hợp với điều kiện thổ nhưỡng, môi trường, sinh thái và sự thiên di của con người cùng sự di chuyển của loài chim, một số động vật ăn hoa quả, sự phân bố các giống cây thường có sự thay đổi về địa bàn theo hướng lan toả hay thu hẹp và cả sự chuyển dịch trung tâm. Biết bao dẫn chứng có thể nêu lên như cây ngô, cây khoai tây, cây mít... trong quá khứ và ngày nay thì sự mở rộng hay thay đổi địa bàn phân bố thực vật càng có nhiều chuyển biến do những tiến bộ về khoa học và công nghệ cho phép con người dễ dàng chọn và nhập giống cây trồng.
Ngày nay, tại Nghệ An, Thanh Hoá nhiều vùng vẫn còn loại vải chua hay vải rừng, nhiều nhà vẫn trồng trong vườn như một loại cây ăn quả, chứng tỏ vùng này từ xa xưa đã có cây vải, chưa kể giống vải mới đưa từ bắc vào gần đây. Cho đến nay, dân vùng Nam Đàn xứ Nghệ vẫn còn lưu truyền ba đặc sản quê hương qua câu "Nhãn lồng, vải tiến, cá rô Bàu Nón" nhưng không rõ vào thời gian nào. Như vậy trên đất nước ta thì từ thời cổ đại, người Việt đã biết trồng vải và nghề trồng vải phát triển liên tục cho đến ngày nay.
Cả một mớ dẫn liệu dài dòng như thế chỉ nhằm giúp ông đi đến kết luận: Như vậy, trên đất nước ta thì từ thời cổ đại, người Việt đã biết trồng vải và nghề trồng vải phát triển liên tục đến bây giờ.
Đây chỉ là cái mẹo tung ra “trận đồ bát quái”, làm hoa mắt người đọc, vừa để tỏ rõ rằng mình có kiến thức uyên bác, vừa làm cho những độc giả chưa đọc bài phản bác “nạn cống vải” ngỡ rằng tác giả của nó (LMC) kém đến mức không biết gì về vụ án Lệ chi viên – vụ án nhằm vu vạ và giết Nguyễn Trãi, vậy mà cũng dám viết bài bác bỏ công trình khám phá của giới sử học từng được cả nước thừa nhận từ nửa thế kỷ rồi!
Tiếp theo, để chứng mình rằng, luận điểm về “nạn cống vải” của mình vẫn đúng, ông Phan Huy Lê đã trích dẫn sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm thời Tây Tấn, nói về việc Hán Vũ Đế bắt người nước Nam Việt đem cây vải về trồng ở Trường An:
Trong thư tịch cổ của Trung Quốc cũng ghi nhận, trong thời Bắc thuộc, từ thời Tây Hán, vải và nhãn là những sản phẩm nổi tiếng Giao Chỉ và Cửu Chân. Sách Nam phương thảo mộc trạng do Kế Hàm soạn năm Vĩnh Hưng thứ 1 (305) đời Tây Tấn (265-317), cho biết:
«Hán Vũ đế năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN)
phá nước Nam Việt, xây dựng cung Phù Lệ, tên Phù lệ là lấy tên lệ chi (cây vải)
đặt cho, đem chuyển 100 cây vải từ Giao Chỉ về trồng ở sân, nhưng không một cây
nào sống. Sau nhiều năm liền đem cây vải về trồng, cuối cùng chỉ có một cây hơi
xanh tốt nhưng không có hoa quả. Vua lấy làm tiếc vật quý và trong lúc buồn
bực, sai giết người trông nom đến mấy chục, rồi không trồng nữa và bắt cống nộp
hàng năm (tuế cống) »
Sau đoạn văn trích dẫn này chúng ta nhận thấy rằng PHL đã tiếp thu ý kiến của Lê Mạnh Chiến về cách hiểu địa danh Giao Chỉ (được nói rõ trong bài của LMC trong bài đăng trên Thế Giới Mới) cho nên, ông ta đã viết được một câu không sai rằng, Vấn đề gây tranh cãi là Giao Chỉ ở đây là quận Giao Chỉ miền bắc nước ta hay bộ Giao Chỉ bao gồm cả miền Lĩnh Nam ở nam Trung Quốc. Trước đây, PHL và giới sử học đã viết trong Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 2 (mà Phan Huy Lê là phó Chủ tịch chuyên trách kiêm Tổng thư ký Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn) rằng GIAO CHỈ là tên do các triều đại phong kiến Trung Quốc dùng để chỉ người và nước Việt Nam thời xư. Chính vì thế nên khi thấy sách Trung Quốc viết rằng quả vải ngon nhất chỉ ở Giao Chỉ mới có thì các nhà sử học lại hiểu là chỉ ở Việt Nam mới có, chứ họ không biết rằng Việt Nam được nhà Hán gọi là quận Giao Chỉ, có diện tích bằng khoảng ¼ của bộ Giao Chỉ, nghĩa là đại bộ phận Giao Chỉ là đất Trung Quốc.
Tiếp đó, PHL khẳng định rằng, cái tên Giao Chỉ trong sách của Kê Hàm chính là quận Giao Chỉ, tức là Việt Nam ta chứ không phải là bộ Giao chỉ mà phần lớn đất đai là thuộc Trung Quốc. Ông ta viết:
Triệu Đà sau khi đánh chiếm nước Âu Lạc, đã lập 2 quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (bắc Trung Bộ). Năm 111 TCN nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt, lập ra các quận Nam Hải, Thương Ngô, Quế Lâm, Hợp Phố, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.... Quận Nhật Nam là miền bắc Lâm Ấp (khoảng trung Trung Bộ từ Hoành Sơn đến Cù Mông) do quân Hán mới chiếm thêm năm 111 TCN. Năm Nguyên Phong thứ 5 (106 TCN) nhà Hán lập Giao Chỉ bộ quản lý cả 9 quận do chức Thứ sử đứng đầu. Như vậy sự việc cống vải từ Giao Chỉ do Nam phương thảo mộc trạng chép vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 tức năm 111 TCN là quận Giao Chỉ thuộc miền bắc nước ta, chứ không phải là bộ Giao Chỉ bao gồm cả miền nam Trung Quốc lập sau đó 5 năm, vào năm Nguyên Phong thứ 5 tức năm 106 TCN.
Lý lẽ của PHL là, Hán Vũ Đế chiếm nước Nam Việt năm 111 trước CN rồi đem 100 cây vải về trồng ở sân, và 5 năm sau đó, tức là năm106 trước CN thì thành lập bộ Giao Chỉ mà Kê Hàm (viết sách năm 305) thì nói về việc cống quả vải thời Hán Vũ Đế, theo PHL thì ắt phải là khi chưa có bộ Giao Chỉ, do đó, địa danh Giao Chỉ chính là quận Giao Chỉ, tức là nước Việt Nam ngày nay.
Hán Vũ Đế làm vua từ năm 140 đến năm 86 trước CN, nghĩa là ông ta chết sau khi thiết lập bộ Giao Chỉ được 20 năm, và theo sách của Kê Hàm được ông PHL trích dẫn thì:
“Sau nhiều năm liền đem cây vải về trồng, cuối cùng chỉ có một cây hơi xanh tốt nhưng không có hoa quả. Vua lấy làm tiếc vật quý và trong lúc buồn bực, sai giết người trông nom đến mấy chục, rồi không trồng nữa và bắt cống nộp hàng năm (tuế cống) »
Vậy thì ông PHL có biết rằng, mấy chữ sau nhiều năm liền của Kê Hàm kia có nghĩa là 3 năm, 4 năm hay 10 năm hoặc 15 năm mà nghĩ rằng chuyện cống vải phải xẩy ra trước khi có bộ Giao Chỉ? Hơn nữa, nếu Kê Hàm là sử quan bên cạnh Hán Vũ Đế và mấy dòng kia là nằm trong bản “thực lục” (tức là ghi chép ngay tại khi sự việc diễn ra) của ông ấy chép sớm hơn năm 107 trước CN thì sự suy luận của PHL mới có một chút giá trị. Nhưng Kê hàm lại sống sau Hán Vũ Đế đến 400 năm, ai bắt ông ấy không được dùng địa danh Giao Chỉ để nói về bộ Giao chỉ, khi mà địa danh ấy đã xuất hiện từ 400 năm trước?
Để củng cố lý lẽ của mình, ông PHL viết tiếp:
...... Hơn nữa, Cổ kim sử văn loại tùng còn chép thêm: «Ngụy Văn đế (220-226) hạ chiếu cho quần thần rằng, quả phương nam, loại quý lạ là long nhãn, lệ chi, lệnh hàng năm nộp cống là xuất từ Giao Chỉ, Cửu Chân ». Sự kiện này cũng được chép trong Nam phương thảo mộc trạng
Ông PHL không cho biết Cổ kim sử văn loại tùng là sách gì, của ai, viết vào thời nào, v.v. Chúng tôi đã thử tìm trên mạng Internet để xem đó là sách gì, có tác giả nào viết về sách ấy không, nhưng cái tên ấy hoàn toàn không xuất hiện lần nào cả. Nếu là tên sách hay là nhân danh, địa danh nổi tiếng thì chỉ cần gõ lên máy tính một phát là sẽ biết có bao nhiêu thông tin đụng chạm đến cái tên đó. Ví dụ: vừa gõ ba chữ “Tân Đường-thư” (chữ Hán), máy tính đã báo cho biết có 11 300 000 thông tin liên quan đến tên sách ấy, hoặc vừa gõ “Tư Mã Thiên” (chữ Hán) thì máy tính cho biết có 1 150 000 thông tin liên quan đến nhà sử học này. Vậy mà khi gõ “Cổ kim sử văn loại tùng” (bằng chữ Hán) thì không thấy có thông tin nào liên quan đến cả nhóm 5 chữ ấy. Điều đó chứng tỏ rằng đây không phải là một quyển sách đáng chú ý, thậm chí, chưa chắc đã đúng tên một quyển sách, may ra chỉ là một phần, một đoạn của một bộ sách nào đó. Cũng có thể là ông PHL đã ghi không đúng, vì cái khoản chữ Hán thì ông này đã đọc sai, viết sai và công bố sai nhiều lần rồi, có nhiều tiền sự rồi, ngay cả trong bài đang được phê phán ở đây, ông cũng đọc sai (hay là chép của người khác rồi bị sai) vài chữ Hán, chúng tôi sẽ nói điều đó ở phần cuối.
Để khẳng định rằng, “nạn cống vải” là có thật và là tai họa giáng lên đầu người
dân Hoan Châu (Nghệ - Tĩnh), ông PHL viết tiếp:
Như vậy cây vải không chỉ có ở Giao Chỉ
mà cả ở Cửu Chân và lệ cống vải bắt đầu từ Tây Hán, tiếp tục đến Nguỵ. Tư liệu
này cho biết thêm Cửu Chân tức vùng Thanh Nghệ Tĩnh hiện nay, thời đó đã có cây
vải và lệ cống vải bao gồm cả vùng này. Cây vải ở vùng Thanh Hoá, Nghệ An có
nguồn gốc lâu đời và sau này thoái hoá dần thành loại vải chua, vải rừng hiện
nay.
Chỉ cần dựa vào Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm và vài dòng của Cổ kim sử văn loại tùng (một nguồn rất vu vơ!) ông chủ tịch Hội khoa học Lịch sử tưởng như đã chứng minh được rằng, “nạn cống vải” mà ông ta đã có công sáng tạo nên (cùng với các nhà sử học khác) là có thật, mà nhân dân Thanh Hóa, Nghệ An là nạn nhân trực tiếp.
Có một điều hết sức quan trọng mà độc giả rất dễ quên còn ông PHL có lẽ không quên nhưng rất mong độc giả quên, đó là, không phải hễ cứ chứng minh xong sự việc cống vải cho triều đình Trung Quốc là khẳng định được cái “nạn cống vải” mà các nhà sử học đã “khám phá” ra. Muốn chứng minh rằng “nạn cống vải” là có thật như các nhà sử học đã “khám phá” thì cần chứng minh được rằng, số lượng quả vải nộp cống phải do hàng ngàn người gánh bộ một mạch đến kinh đô Trung Quốc.
Nếu quả vải được vận chuyển bằng ngựa của các dịch trạm nối tiếp nhau thì chỉ còn là sự cống nạp khá bình thường, mỗi huyện hay vài huyện (của nước ta) chỉ cần vài con ngựa và vài người cưỡi ngựa giỏi, và cả nước chỉ cần vài chục cặp người – ngựa như thế kế tiếp nhau (mỗi cặp người – ngựa cả đi lẫn về trong một ngày) đưa quả vải đến ải Nam Quan là xong việc, và như thế thì hoàn toàn không phải là cái “nạn cống vải” như các nhà sử học đã mô tả.
Nếu phải gánh quả vải đi bộ qua các trạm chuyển tiếp như thế (đương nhiên, điều này không thể xẩy ra) để vận chuyển số lượng quả vải tương đương với số lượng mà các chú dịch mã phải chở cho Dương Quý Phi thì số người lao dịch trong cả nước cũng chỉ lên đến 100 – 200 người, và mỗi người phát mệt nhọc vất vả trong 1 ngày đi và 1 ngày về, mà như thế thì chưa có gì ghê gớm quá sức chịu đựng của cả nước và hoàn toàn không phải là cái “nạn cống vải” mà các nhà sử học đã tưởng tượng ra.
Ông Phan Huy Lê gượng ép chứng minh là có việc cống vải cho triều đình Trung Quốc từ năm 111 trước CN (Hán Vũ Đế) đến triều Ngụy (của con cháu Tào Tháo, từ năm 220 đến năm 263), và coi như thế là đủ để khẳng định “nạn cống vải”, không cần biết là có phải do hàng ngàn người còng lưng gánh gồng ngày này qua tháng khác hay không.. Nhưng tác giả Lê Mạnh Chiến thì đã chứng minh được rằng, việc cống quả vải dưới thời Hán được thực hiện bằng ngựa kế tiếp nhau qua các trạm, nghĩa là giống như ở thời nhà Đường.
Trong bài “Phải chăng, nạn cống vải là nguyên nhân trực tiếp đãn đến cuộc khởi nghĩa của Mai thúc Loan” đăng trên tạp chí Thê Giới Mới (tháng 3- 2003), LMC đã trích dẫn sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm 嵇含 (xin nhấn mạnh là Kê Hàm chứ không phải là Kế Hàm như PHL đã đọc sai) để nói về việc người Nam Việt (xứ sở do cháu chắt Triệu Đà làm chủ, trong đó gồm cả nước Âu Lạc, tức là nước ta thời đó, địa giới đến Đèo Ngang, bị Triệu Đà chiếm từ năm 208 trước CN) phải cống cây vải và quả vải từ thời Hán Vũ Đế (140 – 86 trước CN), mà cây vải và quả vải được lấy từ Lĩnh Nam (miền nam Trung Quốc) còn cách vận chuyển thì chưa được nói rõ. Trong bài mới soạn lại hồi đầu năm 2008 (đã nói đến ở cuối phần I của bài này), LMC không dùng đến đoạn trích từ Nam phương thảo mộc trạng, và đã viện dẫn chuyện Đường Khương dâng thư lên Hán Hòa Đế (làm vua từ năm 89 đến năm 105) xin bỏ lệ cống quả vải đối với dân 7 quận ở bộ Giao Chỉ - mà Lê Tắc có ghi lại trong An Nam chí lược. LMC còn tham khảo sách Hậu Hán thư và Tư trị thông giám để kiểm tra và bổ khuyết và đính chính cho phần ghi trong An Nam chí lược. Theo các sách này thì lệ cống vải đã có từ thời Tây Hán, quả vải được lấy từ 7 quận thuộc bộ Giao Chỉ. (gồm 6 quận ở trên đất Trung Quốc là Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô, Đạm Nhĩ và Châu Nhai, hẳn là có thêm quận Giao Chỉ là quận thứ bảy) và được vận chuyển bằng ngựa kế tiếp nhau qua các dịch trạm.
Như vậy, ngay trên đất Trung Quốc, việc cống vải được thực hiện bằng sức ngựa, kế tiếp nhau qua các trạm, Quả vải ở quận Giao Chỉ hẳn là chỉ góp một phần nhỏ mà thôi, bởi vì quận Giao Chỉ ở xa nhất (mà phẩm chất quả vải cũng kém nhất), dẫu cũng được chở bằng ngựa qua các trạm kế tiếp nhau, khi đến kinh đô hẳn cũng chẳng còn mấy giá trị, cho nên, các đời sau không dùng quả vải ở đây nữa, như chúng ta đã biết và chính ông PHL cũng phải thừa nhận (xem tiếp đoạn dưới).
Lê Hà & Thái Hoàng
(còn
nữa)
No comments:
Post a Comment