Nguyễn Hoàng Đức: Theo tôi tác phẩm văn chương đỉnh cao luôn bao hàm tư tưởng. Ở đây tôi muốn lý giải tư tưởng một cách dễ hiểu để nó không trở thành nơi ẩn nấp cho nhưng cái gì hàm hồ, à uôm, áng chừng, bất khả lý giải dẫn đến hòa cả làng. Trong cơ thể, bộ não là bộ tham mưu cao nhất lãnh đạo toàn bộ các chi thể. Một tác phẩm văn học (hoặc các tác phẩm của các môn nghệ thuật khác cũng vây) giống như một cơ thể và tư tưởng chính là bộ não của nó. Tư tưởng còn có thể được gọi là tính đề tài, tính chủ đề… Người ta không thể hy vọng vào tác phẩm có nhiều tư tưởng mới như mốt thời trang hay như bút phát, hay như phong cách viết. Tư tưởng thường là cao hay thấp nhiều hơn là cũ hay mới. Chẳng hạn như tự do, bình đẳng bác ái, chân lý là những chủ đề luôn luôn cũ hoặc chẳng bao giờ mới, nhưng được lịch sử văn học luôn luôn bám riết hoặc theo đuổi. Có thể minh họa thế này: Có rất nhiều cô gái chân cao chân thấp, vòng một khác vòng hai… đấy là tính đa dạng của cơ thể, nhưng về tư tưởng, trình độ tư tưởng của các cô ấy rất ít khác nhau. Người ta thường phân biệt người có nhu cầu vật chất hoặc người có nhu cầu văn hóa, người có nhu cầu tinh thần, người có nhu cầu tôn giáo, người có nhu cầu từ thiện đạo đức, hoặc người có tất cả nhu cầu đó.
Sương
Nguyệt Minh:
Chả lẽ tác phẩm đỉnh cao chỉ có tiêu chí là tư tưởng lớn? Còn bút bút pháp,
nghệ thuật vứt đi à?
Nguyễn
Hoàng Đức:
Chắc chắn là vậy. Chẳng hạn ta lấy một ví dụ điển hình chắc chắn nhất: Đó là
tác phẩm của Đôn ki hô tê của Xéc văng téc được thế giới văn học bầu chọn là
tác phẩm hay nhất mọi thời đại. Vậy tác tác phẩm đó hay ở cái gì? Nó hay bởi
chính chủ đề của nó. Đôn ki hô tê không kể khi mình đã già yếu hay ảo tưởng đã
xông vào đấu với một hiệp sĩ chuyên nghiệp bất kể đến kết quả bại trận chắc
chắn thuộc về mình. Điều đó nói lên hai điều chính: Một là, anh ta quý danh dự
hơn cuộc đời của mình. Hai là, anh ta buộc phải làm bổn phận của người đàn ông
để bảo vệ phái yếu.
Có
thể nói danh dự vẫn là tiêu chí hàng đầu, đỉnh cao cuả các tác phẩm. Với văn
học hậu phục hưng từ Pháp đến Nga với các cuộc đấu súng và đấu kiếm bảo vệ danh
dự đã tạo ra tác phẩm đỉnh cao.
Không
chỉ văn học, tất cả mọi loại hình nghệ thuật đều không cách gì ra khỏi nguyên
lý Chân – Thiện – Mỹ. Chữ Chân đó là sự thật và chân lý. Chữ Thiện đó là hướng
về lòng tốt. Còn chữ Mỹ là hướng về văn chương và nghệ thuật. Với những tác phẩm
tư tưởng lớn thì mỹ học, hành văn, bút pháp chỉ là thứ tập tàng, điệu bộ, dẫn
dụ, có vai trò rất thấp bé của kẻ làm trò… Thường các nhà văn không có tư tưởng
thì mới làm trò đó. Một ví dụ điển hình: Văn hào Đốt xtôi ép xki, mở đầu
ông viết rất điệu bộ như “Năm đêm trắng”, nhưng ông càng viết càng ẩu. Tất cả
các tác phẩm về sau đồ sộ hơn. Chắc hẳn ông đã bỏ rơi sự điệu đàng bút pháp để
đổi lấy sự vạm vỡ về tư tưởng. Ông ta đánh rơi : viết thế nào để đổi lấy viết
cái gì. Đối với ông thông điệp của tinh thần là mạnh hơn cách bày tỏ.
Sương
Nguyệt Minh: Vậy
thì ở Việt Nam theo ông đã có tác phẩm văn chương đỉnh cao chưa? Nếu có thì là
tác phẩm nào?
Nguyễn
Hoàng Đức: Ở
Việt Nam tác phẩm đỉnh cao lại là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng, đáng tiếc
thay đây là phó sản của văn học Tầu, mà có Hội nghị văn học Trung Quốc đã xác
định: Truyện Kiều của Nguyễn Du được phái sinh từ “Đoạn trường tân thanh” của
Thanh Tâm Tài Nhân, chỉ là tác phẩm hạng hai của Tầu. Và họ còn khẳng định:
Truyện Kiều không thể hay hơn bản chính về mọi góc độ.
Về
thơ hiện đại chúng ta được chính thức khai sinh vào khoảng 1932 – 1945, nhưng
mỗi bài thơ là việc của một tờ giấy (hai mặt), nó không bao giờ có tầm của một
tác phẩm lớn mang tư tưởng lớn. Nhiều nhặn lắm thì nó chỉ mang một cảm xúc vừa
phải, cho nên tôi gạt nó qua 1 bên.
Về văn xuôi, chúng ta có rất ít ỏi áng văn xuôi bất hủ như “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, một tiểu thuyết lịch sử “Hoàng Lê Nhất thống chí” của Ngô văn Gia phái. Cùng thời gian đó, hình như văn xuôi Việt Nam mới chính thức chào đời theo chân thơ. Việt Nam đã có những tác phẩm văn xuôi khá ấn tượng như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Số đỏ” của Vũ Trụng Phụng, “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Chí Phèo” của Nam Cao; nhưng cái để lại ấn tượng trong đầu tôi nhất lại là tác phẩm mà ít người để ý là “Sống mòn” của Nam Cao. Lần đầu tiên vai trò của một người trí thức – một nhà giáo, dường như nó rất mờ nhạt không mang những tính cách đặc sắc của truyền thống hay thay đổi thời đại như nông dân và công nhân, đã bước vào trong tác phẩm. Tôi đã từng viết: đấy là ánh sáng đô thị đầu tiên đã manh nha thắp lên thay thế ngọn đèn dầu của cuộc sống truyền thống. Trong văn học nghệ thuật thường những đề tài bình dị nhất lại trở thành thách thức mỹ học lớn nhất.
Về văn xuôi, chúng ta có rất ít ỏi áng văn xuôi bất hủ như “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, một tiểu thuyết lịch sử “Hoàng Lê Nhất thống chí” của Ngô văn Gia phái. Cùng thời gian đó, hình như văn xuôi Việt Nam mới chính thức chào đời theo chân thơ. Việt Nam đã có những tác phẩm văn xuôi khá ấn tượng như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Số đỏ” của Vũ Trụng Phụng, “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Chí Phèo” của Nam Cao; nhưng cái để lại ấn tượng trong đầu tôi nhất lại là tác phẩm mà ít người để ý là “Sống mòn” của Nam Cao. Lần đầu tiên vai trò của một người trí thức – một nhà giáo, dường như nó rất mờ nhạt không mang những tính cách đặc sắc của truyền thống hay thay đổi thời đại như nông dân và công nhân, đã bước vào trong tác phẩm. Tôi đã từng viết: đấy là ánh sáng đô thị đầu tiên đã manh nha thắp lên thay thế ngọn đèn dầu của cuộc sống truyền thống. Trong văn học nghệ thuật thường những đề tài bình dị nhất lại trở thành thách thức mỹ học lớn nhất.
Tôi
cho rằng chính Nam Cao đã tiến hành bước đi đầu tiên vào thử thách này. Ông đã
viết về truyện mà không có chuyện. Còn các tác phẩm trên như Tắt đèn, Số đỏ,
Chí Phèo, đều là những tác phẩm có chuyện gay cấn. Nhưng, chúng ta đã có tác
giả lớn và tác phẩm đỉnh cao chưa? Tôi cho rằng các nhà văn mới “khai sinh” của
chúng ta chưa đủ sự chín muồi toàn diện từ tri thức, văn hóa, tôn giáo, triết
học, thần học, sinh hoạt mỹ học để làm nên tầm vóc văn hào có đại tác phẩm. Một
lần ở nhà họa sĩ Lê Thiết Cương tôi đã bảo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rằng: “Việt
Nam chúng ta có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng cái cần hơn của chúng ta là đại
văn hào, các ông có dám đề cử mình ở tầm vóc đại văn hào không?” Nguyễn Huy
Thiệp im lặng.
Sương
Nguyệt Minh: Thế
còn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, hoặc các tác phẩm của Nguyễn Minh
Châu?
Nguyễn
Hoàng Đức:
Nguyễn Minh Châu thì tôi chưa đọc. Hoặc có thể đọc lúc trẻ nay thì tôi không
nhớ nữa. Tôi đoán ông ấy cũng “rưa rứa”. Còn Bảo Ninh tôi cũng đọc mấy chục
trang đầu…tôi xin nợ một bình luận trực tiếp. Tôi có xem một tạp chí của Mỹ
hình như là “Book Review” họ có tôn vinh tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh là: “Sự
phản tỉnh đầu tiên về chiến tranh ở Việt Nam.” Tôi cho rằng đây là một lời khen
quá thẳng thắn và tôi hoàn toàn đồng ý với họ. Nhưng, tôi có một cách nhìn
khác. Người ta bảo: nhìn quả biết cây, và cũng nói nhìn cây biết quả. Tôi đã
gặp Bảo Ninh nhiều lần, tôi có thể đong đo được tầm vóc văn hóa, tri thức và
cách sống của ông. Theo tôi thì riêng con người tác giả của Bảo Ninh cũng chưa
thể có sự chín muồi hơn lớp trước (thậm chí còn thua kém lớp tác giả thời chống
Pháp rất nhiều). Để trở thành một tác giả lớn. Chúng ta đã và đang chứng kiến
một Nguyễn Huy Thiệp hết vốn ở truyện ngắn định leo vài nấc thang lên tiểu
thuyết mi ni mà không gượng được. Một Bảo Ninh thì chỉ có vốn “một cuốn cho tất
cả” đến mức tiểu thuyết đầu tiên không thể là đầu tầu để kéo theo phía sau là
dăm ba toa tầu tác phẩm. Thành thực công bằng mà nhìn nhận học vấn, tri thức và
văn hóa là những thách thức chưa “chín muồi” của lớp nhà văn chúng ta cả quá
khứ đến hiện tại. Nhưng, ở quá khứ thì có khá hơn.
Sương
Nguyệt Minh: Thế
còn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp – một tác giả đỉnh cao thời kỳ đổi mới?
Nguyễn
Hoàng Đức:
Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng nhất ở ngoài nước là truyện ngắn “Tướng về hưu”. Đây
là tác phẩm có tính chất tố cáo một hiện thực dữ dằn. Khi ra đời nó tạo ra được
một bước ngoặt đó là so với những tác phẩm đang mang nặng tính tuyên truyền thì
nó rẽ ngoặt để phản ánh sự thật. Ba tác phẩm về lịch sử khá vạm vỡn của Nguyễn
Huy Thiệp là “Phẩm tiết”, “Kiếm sắc”, “Vàng lửa” được nhiều nhà văn, nhà giáo,
và độc giả trong nước ca tụng, nhưng đối với người nước ngoài họ lại thấy rất
bình thường. Tại sao? Lý luận mỹ học cho rằng: Chủ đề tác phẩm lớn mà dựa vào
sử tính, chẳng hạn như nói về sự nổi tiếng của Hoàng đế Na pô lê ông hoặc vua
Quang Trung, thì sự hệ trọng của đề tài sử tính ấy là vay mượn của lịch sử, chứ
không thuộc về tác giả. Chẳng hạn nước mắt của cô thôn nữ chẳng khác gì nước
mắt của hoàng hậu, nhưng bao giờ nước mắt của hoàng hậu cũng nổi tiếng hơn –
bởi vì nó dựa vào tầm vóc của sử tính.
Sương
Nguyệt Minh: Theo
ông nhà văn Việt Nam cần phải làm gì để có tác phẩm đỉnh cao?
Nguyễn
Hoàng Đức: Nhà
văn Việt Nam hiện nay đơn giản như chúng ta thấy nhìn vào Hội Nhà Văn, có một
ông Nguyễn Trung Đức biết tiếng Tây Ban Nha thì đã mất lâu rồi. Cứ tiếng Anh
thì người ta lại nhìn Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, có vài vị biết tiếng
Pháp thì đã nghỉ hưu lâu rồi. Nhiều nhà văn Việt Nam còn biện hộ rằng: Tiếng mẹ
đẻ còn chưa biết hết, biết tiếng Tây làm gì?! Đây là việc cụ thể để chúng ta
hãy tự nhìn nhận tầm vóc trí thức của nhà văn chúng ta. Chẳng hạn có bao nhiêu
nhà văn chúng ta thích nghe nhạc thính phòng giao hưởng, bao nhiêu nhà văn yêu
hội họa… trong đó văn chương và nghệ thuật có tính liên thông, mà ta thấp ở bộ
môn này thì khó mà cao ở bộ môn kia.
Sương
Nguyệt Minh: Thế
còn vốn sống, sự dấn thân và trải nghiệm của nhà văn không cần ư?
Nguyễn
Hoàng Đức:
Dấn thân là gì? Chính là hành động! Mà tư tưởng thì dẫn đến hành động. Tư tưởng
sinh ra từ đâu? Sinh ra từ tri thức. Còn vốn sống và trải nghiệm chỉ là hình
thức của kinh nghiệm, nhiều khi chủ nghĩa kinh nghiệm lại giết chết sáng tạo.
Sương
Nguyệt Minh: Tôi
thì cho rằng: Nhà văn phải có bản sắc nhưng lại phải bắt gặp tính nhân loại.
Qua cuộc truyện trò này, tôi cảm nhận được cứ như ông thì bao giờ cũng đặt tính
nhân loại lên trên hết.
Nguyễn
Hoàng Đức:
Mời ông hãy nhìn ra đại dương, ở đó có rất nhiều con tầu có nhiều dáng nhiều vẻ
khác nhau, nhìn dáng vẻ của mỗi con tàu người ta biết được nơi xuất xứ của nó
đó chính là bản sắc. Còn đại dương chính là giá trị phổ quát cũng thuộc về nhân
loại. Tôi cho rằng: nhà văn phải biết tôn vinh ngôn ngữ bản địa của mình trên
bàn tiệc của nhân loại.
Anh
muốn nói gì viết gì là của anh, của bản địa nơi anh muốn thuộc về (mà anh cũng
không cách nào che được xuất xứ của anh đâu) nhưng hãy làm chói sáng ngôn ngữ
đó trên bàn tiệc phổ quát của nhân loại. Thì cả dân tộc anh và nhân loại sẽ
biết ơn anh.
Sương
Nguyệt Minh:
Xin cảm ơn ông về những lời ngay thẳng chân thành.
-
Nguồn: Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
No comments:
Post a Comment