2.1.3.
Tâm lý bi quan, thất vọng, bất mãn đến cùng cực, mất phương hướng đấu tranh của
quần chúng nhân dân Campuchia
Nhân
dân Campuchia do từ bao đời sống trong một thiết chế xã hội mà ở đó vương quyền
và tôn giáo thống trị một cách chặt chẽ. Hậu quả tai hại là đã mang lại cho
người dân một bản tính thụ động, phục tùng khi mà họ chưa được giác ngộ cách
mạng và họ luôn bị các giai cấp thống trị bóc lột, đàn áp.
Bọn
Pol Pot – Ieng Sary đã lợi dụng tâm trạng đó của người dân, lừa gạt họ, lôi
kéo, cưỡng bức họ đi theo mình, để rồi bắt họ chết, giết hại lẫn nhau và sử
dụng họ tấn công lại người bạn chiến đấu Việt Nam, thậm chí hô hào họ tiến hành
diệt chủng đối với người Việt Nam.
Mặc
khác, như nhiều nhà nghiên cứu đã từng viết: lịch sử Campuchia đã trải qua quá
nhiều thăng trầm và biến động, nhân dân Campuchia đã đổ biết bao mồ hôi, xương
máu để xây dựng và bảo vệ đất nước, để giành quyền sống cho mình nhưng chưa một
lần giành được thắng lợi. Vì vậy, đã tạo nên tâm lý bi quan, thất vọng triền
miên trước vận mệnh của đất nước. Bọn Pol Pot đã biết khai thác tâm lý này,
kích động sự hận thù của những con người bị thất bại liên tục trong lịch sử.
Pol Pot xuyên tạc sự thật lịch sử, giải thích cho những người bi quan thất vọng
ấy cái nguyên nhân của sự thất bại liên tục trong lịch sử là do “kẻ thù
truyền kiếp Việt Nam” gây nên. Cuốn “Sách đen” của bọn Pol Pot
ra đời năm 1977 chính là muốn lôi kéo những con người bi quan, thất vọng đó vào
cuộc chém giết tàn khốc đối với nhân dân Việt Nam.
Về
mặt kinh tế – xã hội, nông dân Campuchia từ bao đời bị áp bức bóc lột, nhất là
từ khi bọn thực dân Pháp xâm lược, thống trị. Nhưng để lừa bịp những con người
thụ động và phục tùng nhằm duy trì ách thống trị của mình, chống lại cuộc đấu
tranh giai cấp đang diễn ra gay gắt trên thế giới, Sihanouk đã từng dỗ ngọt: “…chúng
ta không có vấn đề ruộng đất để phải tiến hành một cuộc cải cách,…. quần chúng
nông dân đều là tiểu chủ”. Sự thật thì hoàn toàn không phải như vậy. Chính
ba bản luận án tiến sĩ của Hou Youn, Hu Nim và của Khieu Samphan ở Paris, đã
vạch rõ thực trạng kinh tế, trì trệ, lạc hậu của Campuchia và chỉ rõ người nông
dân bị áp bức, bóc lột như thế nào, đời sống của họ cơ cực ra sao. “Thời kỳ
vàng son” mà Sihanouk thường ca ngợi, thật ra là thời kỳ thống trị của bọn
phong kiến, quan liêu quân phiệt, mại bản thối nát, tham nhũng. Đây cũng là
thời kỳ thực dân mới từng bước thống trị xã hội Campuchia. Chiến tranh liên
miên đã tạo ra quá trình đô thị hóa cưỡng bức và tàn phá ghê gớm(32). Sự phân hóa giai cấp trong xã hội ngày
một sâu sắc. Với 89% dân số sống ở nông thôn, giai cấp nông dân bị phân hóa hơn
bao giờ hết, tình trạng nghèo khổ do mất ruộng đất ngày càng gia tăng.
Từ
thực trạng đời sống khốn cùng đó. Họ chỉ còn biết căm thù tất cả những gì đã
gây ra đau khổ, đói khát, chết chóc. Họ căm thù sự phồn vinh của đô thị, căm
thù chiến tranh, khinh thị thế giới, coi khinh cái chết,… Đây chính là điều
kiện thuận lợi để Pol Pot sử dụng những con người đầy lòng căm thù này lao vào
một cuộc chém giết mà họ lại đang coi thường cái chết.
Từ
thực trạng như vậy, chỉ còn một con đường duy nhất mà họ mong chờ là sự đổi
đời, mong chờ cách mạng. Pol Pot đã lừa bịp họ, đưa họ vào cuộc chiến tranh phá
nát đất nước Campuchia và tấn công tiêu diệt Việt Nam. Trong tình thế đó, người
nông dân không có phương hướng đấu tranh. Họ bị đẩy vào cuộc chém giết tàn ác,
dã man mà không hề biết mục đích. Tầng lớp trí thức, sinh viên, học sinh cũng
vậy, họ bị kích động, bị lôi kéo, sẵn sàng tiếp nhận tính “bạo loạn” của
Pol Pot. Hàng loạt đã bỏ chế độ Sihanouk, Lon Nol, vào rừng đi theo Pol Pot làm
“cách mạng”,…
Hơn
thế nữa, với thủ đoạn tuyên truyền, kích động, cưỡng bức của bọn Pol Pot – Ieng
Sary càng làm cho những con người vốn thụ động, phục tùng hoàn toàn, mất phương
hướng đấu tranh, họ đã cầm vũ khí tiêu diệt người bạn chiến đấu của mình là
nhân dân Việt Nam.
Một
khía cạnh khác cũng cần lưu ý. Khi chế độ quân chủ sụp đổ năm 1970, xã hội
Campuchia tan rã từ trên xuống. Nhưng với tầng lớp nông dân vẫn còn lệ cổ sâu
sắc, và chế độ quân chủ bị lật đổ vì những mưu đồ của giới thượng lưu, tư sản
chứ không phải vì một cuộc nổi dậy của quần chúng. Rồi bọn Pol Pot – Ieng Sary
lên cầm quyền năm 1975, với một nhóm những trí thức cấp tiến của giai cấp trung
gian, đứng đầu một đội quân nông dân. Bọn chúng lên cầm quyền từ một địa vị bị
cô lập hầu như hoàn toàn trong hơn năm năm với bối cảnh của một sự sụp đổ to
lớn về cơ cấu xã hội và chính trị cổ xưa bởi cơn lốc chiến tranh, chứ không
phải do một phong trào vững chắc của sự phản đối xã hội và sự thay đổi chính
trị. Bọn chúng đã giành được sự kiểm soát nhân dân trước khi giành được tính
hợp pháp đại chúng và thậm chí bọn chúng không có được sự thống nhất cả từ bên
trong nội bộ.
Khác
với Việt Nam, bọn cầm đầu Khmer đỏ không thể tập hợp cho chúng những cán bộ
cách mạng giỏi, có trình độ học vấn từ giới trí thức, từ những tầng lớp trung
gian, cũng như từ tầng lớp nông dân. Bởi vì, giới trí thức và tầng lớp trung
gian ở Campuchia còn nhỏ và phần lớn đi theo chế độ Lon Nol. Tuy nhiên, điều “đáng
tiếc” là số ít giới trí thức và tầng lớp trung gian đi theo chúng cũng bị
thanh trừng, tiêu diệt gần như hoàn toàn vì không thống nhất về tư tưởng cũng
như về sách lược.
Đội
ngũ bên dưới của chúng là những binh lính nông dân được giáo dục rất ít. Đại đa
số là những thanh thiếu niên thiếu phương hướng ở các thôn xóm bị đẩy từ một xã
hội cổ truyền nông thôn vào một cuộc chiến tranh hiện đại tàn ác chỉ mới vài
tháng, hoặc thậm chí mới vài tuần trước đó. Trong các cuộc cách mạng khác cũng
vậy, những “cán bộ” với một quá trình như vậy thường phạm phải những
hành động thô bạo tàn ác, trừ phi được những nhà lãnh đạo tinh thông hơn hướng
dẫn và kiềm chế. Ở Campuchia, những “nhà lãnh đạo” như vậy còn rất hiếm!
Hơn
nữa, bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan lại chủ tâm muốn lợi dụng khả năng
tàn ác tiềm tàng đó để phục vụ cho mục đích của chúng. Kết quả là trong cuộc “cách
mạng Campuchia” những người nông dân hiếu chiến đã trở thành một công cụ
đắc lực cho chính sách diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary.
Dưới
cái vỏ bọc của những lời lẽ có vẻ “cách mạng”, bè lũ Pol Pot – Ieng Sary
đã áp đặt lên nhân dân Campuchia một hệ thống biến họ thành nô lệ và
chúng thi hành quyền lực đối với họ trên cơ sở sự khủng bố, sự tàn bạo, và sự
diệt chủng. Nét độc đáo của xã hội Khmer đỏ là Pol Pot đã nô dịch chính dân tộc
của chính hắn, chúng biến nhân dân chúng thành những nô lệ, thực hiện cho chúng
chính sách tự diệt chủng đối với nhân dân mình và diệt chủng đối với những dân
tộc láng giềng với mức độ tàn ác dã man, mà nếu có thể đem so sánh thì bọn phát
xít Hitler còn phải chào thua.
2.2.
Nguồn gốc bên ngoài
Mục
tiêu cơ bản và lâu dài của tập đoàn phản động Bắc Kinh là thiết lập quyền bá
chủ thế giới. Tham vọng này xuất phát từ tư tưởng bành trướng Đại Hán tộc của
các hoàng đế Trung Hoa xưa, coi Trung Quốc là trung tâm thiên hạ, bắt các nước
khác phải biến thành chư hầu phụ thuộc vào Trung Quốc. Đối với các dân tộc
chung quanh, người Hán luôn khinh thường, coi họ thấp kém, nên gọi là “Tứ
di”. Di 夷là bọn “rợ mọi” ở phương
Đông; Nhung 戎 là bọn “hiếu chiến” ở
phương Tây; Man 蠻Z (trong chữ tượng hình có
bộ trùng 虫 tức sâu bọ) là bọn “dã
man” ở phương Nam; Địch 狄
(trong chữ tương hình có bộ khuyển犭tức
chó) là giống “rợ ở phương Bắc.
Ngay
từ năm 1939, trong tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có tên Cách mạng
Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì Mao Trạch Đông, kẻ kế tục
truyền thống bành trướng của phong kiến Trung Quốc đã ngang nhiên nói rằng: “Các
nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của
Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ
Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Bhutan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam,…(33) Nhiệm vụ trư?c tiên của Trung Quốc là
hoàn lại tất cả các đất đai của chúng ta chứ không phải chỉ là bảo vệ các quyền
của chúng ta từ dãy Vạn lý trường thành”.
Sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra
đởi, tạo điều kiện cho Trung Quốc giải phóng đất nước vào năm 1949. Trong bối
cảnh đó, Mao Trạch Đông lại đởa ra lý thuyết “vùng trung gian” hòng nắm
trọn vùng này. Theo Mao, giữa Liên Xô và Mỹ tất yếu phải xảy ra chiến
tranh. Hai bên sẽ tìm cách chinh phục “vùng trung gian” bao gồm phong
trào giải phóng dân tộc ở ba lục đởa Á – Phi – Mỹ la tinh và các nước tư bản
phương Tây. Ý đồ của Mao là trong khi đẩy Liên Xô và Mỹ đối đầu nhau, Trung
Quốc tìm cách nắm trọn vùng này. Mao cho rằng đã đến lúc có thể thực hiện được
mộng tưởng thống trị toàn thiên hạ, lấy chủ nghĩa Mao thay cho chủ nghĩa Marx
– Lénine, làm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành Đảng lãnh đạo phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, làm cho Trung Quốc trở
thành trung tâm của thế giới, nắm quyền bá chủ toàn cầu. Chính Mao đã tuyên bố
tại hội nghị quân sự mở rộng năm 1959: “Chúng ta phải chinh phục toàn thế giới.
Mục tiêu của chúng ta là toàn trái đất, nhất địnhchúng ta phải thấm nhuần và
thực hiện đến nơi đến chốn quyết tâm đó”.
Trong
mưu đồ giành giật “vùng trung gian”, thì châu Á là nơi Bắc Kinh cho rằng có
nhiều “ảnh hưởng” và “uy tín” hơn cả, dễ thực hiện âm mưu bá quyền bành
trướng của chúng hơn cả. Một số nước châu Á có biên giới chung với Trung Quốc
và đều nằm trong tay của Bắc Kinh. Nhưng phía Bắc và Tây Bắc của Trung Quốc là
Liên Xô, một nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, không cho phép Bắc Kinh
thực hiện chủ nghĩa bành trưởng của chúng một cách trực tiếp. Ở phía Đông Bắc
có Nhật, một cường quốc kinh tế thế giới, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái
Bình Dương, không thể là đối tượng bành trướng trực tiếp được. Ở phía Tây Nam
có Ấn Độ, với số dân 700 triệu, có nền kinh tế độc lập, đang thực hiện chính
sách hòa bình trung lập tích cực và không liên kết, một đối tượng cứng rắn đối
với chính sách bá quyền và bành trướngcủa Trung Quốc. Do vậy, Bắc Kinh đã chọn
Đông Nam Á là nơi có những nước loại vừa và loại nhỏ làm hưởng bành
trướngchủ yếu của mình.
Thôn
tính Đông Nam Á, không phải vì đây là hưởng tối ưu nhất, cũng không chỉ vì
vùng này giàu có về tài nguyên khoáng sản, mà điều quan trọng hơn là vì vùng
này chiếm một
vị trí chiến lượchết sức quan trọng. Đông Nam Á nằm trên đườnghàng hải quốc
tế từ Đông Bắc Á, Thái Bình Dương sang Trung Đông, châu Âu và châu Phi.
Giành đượcĐông Nam Á sẽ giành đượchơn 400 triệu dân. Lúc đó Trung Quốc sẽ có
1,4 tỷ người, và như vậy sẽ cô lập đượcẤn Độ, buộc Ấn Độ phải ngả vào vòng
tay của đế quốc thiên triều; Trung Quốc sẽ có số dân chịu sự khống chế của mình
tới trên 2 tỷ người. Và lúc đó chắc chắn bàn cờ thế giới không cần phải tính
toán nhiều, mộng bá chủ thế giới sẽ đượcthực hiện!
Chính
vì vậy, tháng 8-1965, Mao đã khẳng định trong một cuộc họp Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Chúng ta sẽ giành cho đượcĐông
Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và
Singapore,… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản,… xứng
đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy,… Sau khi giành được Đông Nam Á,
chúng ta có thể tăng cườngđượcsức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng
ta sẽ có sức mạnh đởơng đầu với khối Liên Xô – Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt
gió tây”(34). Ngay trong cuộc hội đàm với đại biểu
Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, Mao cũng nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch
500 triệu bần nông đởa quân xuống Đông Nam Á”(35).
Bành
trướngxuống Đông Nam Á, Bắc Kinh còn có nhiều thuận lợi. Nơi đây không chỉ là
khu vực bành trướngcổ truyền của Trung quốc, mà khu vực này có nhiều tổ chức
Đảng Maoism(36), và chính nơi đây Bắc Kinh còn có lực
lượng Hoa kiều, “Đội quân thứ năm sẵn sàng làm theo mệnh lệnh Trung Quốc”.
Bành trướng xuống Đông Nam Á, Bắc Kinh còn có một “thuận lợi” rất lớn là dễ dàng
liên kết đượcvới đế quốc Mỹ (từ 1972 Mỹ và Trung Quốc câu kết với nhau, sau
khi Mỹ buộc phải rút khỏi vùng này, Mỹ sử dụng con bài Trung Quốc nhằm ngăn
chận ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực).
Nhưng
muốn bành trướngxuống Đông Nam Á, tập đoàn Bắc Kinh phải chiếm cho đượccái
cầu Đông Dương. Đông Dương vừa là láng giềng trực tiếp, vừa là chiếc cầu nối
liền từ Trung Quốc với các nước Đông Nam Á. Cho nên muốn thôn tính Đông Dương,
phải phá vỡ đượckhối đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương. Và muốn phá
vỡ tình đoàn kết chiến đấu keo sơn đó, thì phải tập trung mũi nhọn vào chống Việt Nam, đánh
gãy ngọn cờ cách mạng và trục đoàn kết ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Về
Việt Nam, thì từ lâu Bắc Kinh đã thực hiện mọi thủ đoạn thâm độc nhất, hòng làm
Việt Nam không thắng, không bại, bị chia cắt lâu dài, làm nước đệm giữa Trung
Quốc và chủ nghĩa đế quốc, không bao giờ mạnh lên được, và luôn luôn lệ thuộc
vào chúng. Nhưng tất cả những mưu mô, thủ đoạn của Trung Quốc trong 30 năm qua
đối với Việt Nam đều bị thất bại hoàn toàn(37).
Chính
vì bị thất bại trong chính sách khuất phục Việt Nam, giới cầm quyền Bắc Kinh cố
tìm mọi cách bám lấy Lào và Campuchia, dùng hai nước này khống chế, phá vỡ
khối đoàn kết Đông Dương, tiến lên thôn tính toàn bộ bán đảo Đông Dương, bành
trướng xuống Đông Nam Á.
Nhưng
ở Lào, nhân dân Lào có một truyền thống đấu tranh kiên cườngbất khuất, và nhất
là lại có một Đảng Nhân dân cách mạng Lào thực sự là một Đảng Marxism chân chính,
kiên cườngcách mạng, kề vai sát cánh với nhân dân Việt Nam cùng chiến đấu,
cùng chiến thắng, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Còn
ở Campuchia, do những hoàn cảnh lịch sử, nhất là do âm mưu của bọn phản động
trong giới cầm quyền Bắc Kinh, thủ tiêu hoàn toàn thành quả cách mạng của nhân
dân Campuchia qua hiệp địnhGénève, khiến cho Campuchia biến thành khâu yếu
nhất trong phong trào giải phóng dân tộc trên toàn bán đảo Đông Dương(38). Tình hình Campuchia từ sau năm
1954 trở nên vô cùng phức tạp. Chính trong bối cảnh Campuchia như vậy, Bắc Kinh
đã từng bướcnhảy vào, quyết duy trì tình trạng Campuchia là khâu yếu nhất,
nhằm gạt dần ảnh hưởng tích cực của cách mạng Đông Dương ra khỏi Campuchia,
tạo một chỗ đởng thuận lợi cho việc triển khai kế hoạch bành trướnglâu dài
của chúng.
Để
nhanh chóng xâm nhập vào Campuchia, trong tình hình Campuchia có nhiều thế lực
đối
lập nhau. Ngay từ đầu, chính sách của nhóm phản động trong giới cầm quyền Bắc
Kinh là cùng một lúc nắm nhiều lực lượng, biến các lực lượng này thành những
con bài trong tay chúng, và tùy theo tình hình diễn biến của cách mạng Đông
Dương mà sử dụng con bài một cách thích hợp.
Trước
hết chúng tán thành chủ trướng hòa bình trung lập của Sihanouk, muốn dùng
chính quyền Sihanouk để khống chế và nắm các lực lượng khác ở Campuchia, không
để Mỹ nhảy vào Campuchia, biến Campuchia lệ thuộc hoàn toàn vào mình. Từ những
năm 1956-1957, Sihanouk đã đồng ý nhận viện trợ kinh tế, quân sự, kỹ thuật của
Trung Quốc.
Ý
đồ của Trung Quốc là muốn tạo nên tình hình hết sức căng thẳng ở Đông Dương,
từng bước can thiệp sâu vào vùng này, biến Đông Dương thành món hàng “Vể
mặc cả với Mỹ?. Ngày 17-8-1967, Chu Ân Lai tuyên bố với Ngoại trướng
N.Phurissara(39) của chính phủ Sihanouk: “Chúng tôi sẵn
sàng trong bất cứ lúc nào để tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Cần phải
tăng cường công việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh của chúng tôi”(40).
Đồng
thời với viện trợ kinh tế, quân sự, Bắc Kinh đã sử dụng cộng đồng người Hoa ở
Campuchia làm sức ép với chính quyền Sihanouk. Chúng biến sứ quán Trung
Quốc tại Phnom Penh thành trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của Hoa kiều trên
toàn cõi Đông Dương(41).
Trung
Quốc chơi con bài Sihanouk không chỉ để nắm Campuchia, mà còn dùng Sihanouk làm
loa tuyên truyền để nói xấu Liên Xô, đề cao công lao to lớn của Trung Quốc đối
với Việt Nam.
Đồng
thời với việc sử dụng con bài Sihanouk, Bắc Kinh đã chơi con bài Lon Nol. Lon
Nol và phe cánh là lực lượng cực hữu thân Mỹ. Bắc Kinh đã tìm thấy ở tên tư
sản mại bản gốc Hoa này sức mạnh của Mỹ và đường lối chống Việt Nam, bành
trướng lãnh thổ. Điều đó rất phù hợp với Trung Quốc, nên Bắc Kinh đã tìm mọi
cách nắm lấy Lon Nol, sử dụng Lon Nol tạo nên sự khống chế gián tiếp của Trung
Quốc đối với Sihanouk.
Cùng
lúc với việc sử dụng hai con bài chính Sihanouk và Lon Nol để chống cách mạng
Đông Dương, Trung Quốc đã chơi con bài thứ ba, bọn lưu manh chính trị Pol Pot –
Ieng Sary – Khieu Samphan. Đây là nước cờ hết sức thâm hiểm mà Bắc Kinh cố
công thực hiện, hòng xoay chuyển lại tình thế cách mạng đang tiến triển tốt đẹp
ở Đông Dương.
Dưới
con mắt của Bắc Kinh, các con bài của chúng ở Campuchia đều chống Việt Nam,
nhưng kết quả chống Việt Nam của bọn Pol Pot – Ieng Sary sẽ vô cùng hiệu
nghiệm, bởi vì khác những tên tay sai khác, Pol Pot – Ieng Sary có cái vỏ bọc
“cộng sản”, có điều kiện thuận lợi để thi hành chính sách hai mặt: dựa vào Việt
Nam, tranh thủ sự giúp đở của Việt Nam và ngấm ngầm chống Việt Nam – sự phá
hoại nguy hiểm nhất chính là của “người bạn cùng chiến hào”. Vì vậy Bắc Kinh
đã nắm chặt bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan.
Từ
khi trở về nước, cho đến khi thành công trong việc tiếm quyền lãnh đạo trong
Đảng Cộng sản Campuchia năm 1963, bọn chúng vẫn che giấu đượcý đồ đen tối:
chống phá cách mạng Campuchia, chống Việt Nam. Ý đồ biệt lập, gạt ảnh hưởng
cuộc cách mạng Việt Nam, từng bước thủ tiêu những người cộng sản chân chính,
tiến lên thao túng toàn Đảng đã lộ rõ nét nhất từ khi chúng bắt gặp đượcchủ nghĩa
Mao – chủ nghĩa bá quyền bành trướng Trung Quốc vào năm 1965.
Bắc
Kinh đã tìm được ở bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan những nét tưởng
đồng với mình, như thủ đoạn giả hiệu cách mạng để chống lại cách mạng, tính cực
đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đậm màu sắc vị chủng. Đây là quan hệ sâu xa
nhất tạo nên mối quan hệ thầy – tớ giữa Bắc Kinh và bọn Pol Pot – Ieng Sary –
Khieu Samphan. Đượctiếp xúc với không khí cuộc “cách mạng văn hóa” của Trung
Quốc khiến cho Pol Pot nhanh chóng tiếp thu những mặt phản động nhất của chủ
nghĩa Mao đã và đang áp dụng ở Trung Quốc. “Nhưng tính chất sát nhân của Hồng
vệ ninh Mao chỉ là trò chơi trẻ con nếu đem ra so sánh với những đội xử tử do
Pol Pot đưa ra”. Từ 1967 chúng bắt đầu phê phán, chỉ trích Việt Nam. Chính trong
cuốn “Sách đen” xuất bản năm 1977, Pol Pot đã công khai nói rằng ngay từ năm
1965, giữa Campuchia và Việt Nam có mâu thuẫn cơ bản về đườnglối!
Ngày
18-3-1970, Lon Nol tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Sihanouk. Trong sự nghiệp
chung chống đế quốc Mỹ và tay sai, cùng với các lực lượng yêu nước và cách
mạng Campuchia, bộ đội Việt Nam đã giúp cách mạng Campuchia giải phóng nhiều
tỉnh, thành. Vùng giải phóng đã lan dần tới 3/4 diện tích toàn quốc. Tháng
8-1970, Pol Pot từ Bắc Kinh về nước, với tư cách Tổng Bí thư, Pol Pot triệu
tập Đại hội Đảng lần thứ III vào tháng 10-1970 nhằm chính thức hóa việc tiêu
diệt các lực lượng cách mạng ở trong nước. Mục tiêu thanh toán hàng đầu của
chúng là lực lượng “51”(43), tức những cán bộ cách mạng Campuchia từ
Việt Nam trở về, và những người có quan hệ với cách mạng Việt Nam. Pol Pot đặt
ra khẩu hiệu “vừa đánh, vừa xây”. “?ánh” là để tiêu diệt các lực lượng cách
mạng, “xây” là tập trung quyền lực vào tay Pol Pot, thay đổi lại bộ mặt vùng
giải phóng bằng hệ thống kìm kẹp tàn bạo của mình.
Cuối
năm 1971, Trung Quốc đã chỉ đạo cho Pol Pot ra sức phản đối Hội nghị cấp cao
Nhân dân Đông Dương. Mặt khác, bọn Pol Pot đẩy mạnh hơn nữa việc thi hành chính
sách hai mặt đối với Việt Nam. Chúng vừa đuổi lực lượng Việt Nam về nước, rồi
yêu cầu giúp đở khi bị tấn công; vừa tiến hành tập kích, tiêu diệt lực lượng
Việt Nam, cướp vũ khí, lượng thực, kho tàng, rồi đổ lỗi cho nhầm lẫn, binh
lính vô kỷ luật hoặc
bảo rằng do quân Lon Nol giả dạng,… gây rất nhiều khó khăn cho cách mạng
Việt Nam.
Trong
tình thế cách mạng Đông Dương ngày càng giành được nhiều thắng lợi to lớn, đế
quốc Mỹ thua to, bế tắc ở Đông Dương. Trung Quốc đã đẩy mạnh âm mưu chuẩn bị thế
chân Mỹ khi Mỹ thất bại hoàn toàn ở vùng này. Bắc Kinh đã thi hành hàng loạt
thủ đoạn đê hèn không cho cách mạng Việt Nam, Lào giành thắng lợi cuối cùng(44). Ở Campuchia, Bắc Kinh tăng cường sử
dụng bọn Pol Pot – Ieng Sary hơn nữa, nhằm biến Campuchia thành một căn cứ phản
cách mạng do Trung quốc điều khiển, nằm ngay trong lòng các nước Đông Dương,
trư?c hết tập trung chĩa mũi nhọn vào sườn phía Tây Nam của Việt Nam.
Để
thực hiện ý đồ đen tối trên, Bắc Kinh đã cho Pol Pot – Ieng Sary tiến hành làm
“trong sạch cách mạng”, tập trung nhân dân các vùng giải phóng vào các “hợp tác
xã” theo mô hình của Mao, biến vùng chúng kiểm soát thành một trại tập trung
trá hình, tiến hành các biện pháp tàn bạo nhất, bắt đầu diệt chủng ở vùng giải
phóng. Song song, chúng khuyến khích bọn Pol Pot đẩy mạnh chiến tranh du kích,
tạo ra một sức ép thưởng xuyên đối với các vùng đô thị do Lon Nol kiểm soát,
đẩy nhân dân vào cơn lốc khủng bố và tàn sát.
Lợi
dụng thắng lợi quyết định của cách mạng ở Việt Nam và Lào vào đầu năm 1975,
chúng huy động tối đa lực lượng, mở những đợt tấn công cuối cùng vào Phnom
Penh với ý đồ giành thắng lợi trư?c cách mạng Việt Nam và Lào, để chủ động
chuẩn bị những hành động chống lại Việt Nam và Lào(45).
Thắng
lợi vẻ vang của nhân dân trên bán đảo Đông Dương không chỉ làm cho đế quốc Mỹ
bị thất bại thảm hại, mà đó còn là thất bại đau đớn cho chủ nghĩa bành
trướng, bá quyền Bắc Kinh. Không cam chịu thất bại trong mưu đồ chiến lược
thôn tính các nước Đông Dương, chúng đã điên cuồng chống lại cách mạng Đông
Dương. Một “thuận lợi to lớn” cho chúng là bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary –
Khieu Samphan đã giành được toàn bộ thành quả cách mạng của nhân dân
Campuchia. Từ đởa bàn chiến lượcnày Bắc Kinh mưu tính những âm mưu và thủ
đoạn nhất để biến Đông Dương thành chư hầu của chúng.
Theo
chỉ thị của Bắc Kinh, bọn Khmer đỏ – Campuchia dân chủ của Pol Pot – Ieng Sary
– Khieu Samphan đã tập trung toàn bộ sức lực để tấn công Việt Nam, khẩu hiệu
của chúng là “Tất cả vì tiền tuyến, vì đánh Duôn!”. Muốn làm được như vậy,
chúng đã tiến hành phá nát đất nước Campuchia, biến Camphia thành một nhà tù,
một trại lính khổng lồ, với cuộc diệt chủng tàn bạo có một không hai trong lịch
sử Campuchia(46). Đồng chí Trường Chinh đã nhận xét:
“Chúng còn mưu đồ biến Campuchia thành một vị trí xuất phát cho cuộc chiến
tranh xâm lược của Bắc Kinh chống Việt Nam với hai mũi tiến công: từ phía Bắc
đánh
xuống bằng đại quân Trung Quốc và từ Tây Nam đánh lên bằng quân đội của bọn
tay sai Pol Pot – Ieng Sary. Mũi đánh vòng chiến lược ở phía Tây Nam này là
một ngọn đòn ác hiểm giáng vào sườn nhân dân ta”(47).
Quá
trình tấn công Việt Nam của bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary(48) được thực hiện từng bước, phụ thuộc vào
kế hoạch chống Việt Nam của giới cầm quyền Bắc Kinh. Trung Quốc quyết đánh Việt
Nam tới người Campuchia cuối cùng, cũng như đã từng đánh Mỹ tới người Việt
Nam cuối cùng.
Năm
1975, bọn Pol Pot chưa dám gây ra những cuộc tấn công quy mô lớn vào lãnh thổ
Việt Nam, bởi lẽ:
- Chúng còn gặp khó khăn trong việc thanh trừng nội bộ:
- Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh, trong tháng 4-1975, do bất đồng ý kiến nên Hou Youn bị cách chức Bộ trướngBộ Nội vụ, Chou Chet bị cách chức Bí thư Khu Tây Nam.
Hou
Youn bị bắt tra tấn, phải tự sát trong trung tâm tra tấn Tuol Sleng vào tháng
8-1975. Còn Chou Chet bị bắt rồi giết vào 26-3-1978.
- Cuối năm 1976, khi cuộc thanh trừng diễn ra rầm rộ, hai trong những đối thủ hàng đầu của Pol Pot là Keo Moni và Nong Suol bị bắt.
Năm
1977, thủ tiêu Hu Nim Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền; Tok Phuol Bộ
trưởng Bộ Công Chính. Coi Thuon Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thương mại, và Duol
Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.
- Sau này do những hành động chống đối vào tháng 5-1978 của So Phim, Bí thư Khu Đông, Phó Chủ tịch Quốc hội. Pol Pot cử Son Sen(49) và Ta Mok(50) đem quân tấn công quy mô lớn vào Khu Đông tàn sát tất cả các cán bộ, binh lính và cả dân thưởng ở khu này để tiêu diệt tận gốc. Bị đánh bại, So Phim tự sát không để bị bắt.
Trợ
lý đắc lực cho Pol Pot – Ieng Sary trong những đởt thanh trừng, thanh lọc là
Son Sen (Bộ trướngBộ Quốc phòng), Nuon Chea (Chủ tịch Quốc hội), Ta Mok (Bí
thư Khu Tây Nam) và Kaing Khek Iev(51) (còn gọi là anh Deuch - Phụ trách Cảnh sát mật kiêm Giám đốc
Nhà tù – trung tâm tra tấn Tuol Sleng).
Trong
một danh sách tìm được, thấy ghi tên 242 cán bộ cao cấp bị chúng giết hại từ
năm 1976 đến ngày 09-4-1978. Trong số này có hai Ủy viên Trung ư?ng Đảng, bốn
Bí thư khu, 24 Bí thư và Ủy viên vùng, bốn Bộ trưởng, năm Thứ trưởng, chín Ủy
viên bộ, tám Chính ủy và Phó Chính ủy sư đoàn và một số đại sứ được gọi về
nước,… Trừ phái Pol Pot và sau này có thêm Nuon Chea, Ta Mok ra, toàn bộ giới
lãnh đạo của cuộc cách mạng những năm 1970-1975 đã bị quét sạch: trong số 17
người cộng sản giữ chức vụ trong chính phủ trung ư?ng năm 1975-1976, chỉ năm
người đượcbiết còn sống sót vào cuối năm 1978; và trừ Pol Pot, Ta Mok, không
có Bí thư Khu vực nào của Đảng còn sống sót.
- Mặt khác thời gian này, Bắc Kinh còn thực hiện chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa giấu mặt chống Việt Nam, vừa cố ép Việt Nam đi vào quỹ đạo của chúng. Chính vì vậy, trong thời gian này, Pol Pot cũng đã thi hành chính sách hai mặt đối với Việt Nam. Trong khi tổ chức nhiều cuộc tấn công vào biên giới Việt Nam, vẫn tỏ ra “biết ơn sự giúp đở quý báu của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho cách mạng Campuchia”(52).
Nhưng
từ cuối năm 1976 trở đi, Bắc Kinh đã nhận thấy chính sách “hai mặt” của chúng
khó có hiệu quả và ở Campuchia, Pol Pot đã siết chặt đượcnền thống trị của
chúng, thì Bắc Kinh đã đồng ý để Pol Pot đẩy mạnh hơn nữa các cuộc tấn công vào
Việt Nam. Tháng 4-1977, chúng đã tấn công toàn tuyến biên giới và có nơi sâu
vào lãnh thổ Việt Nam 30 km, gây nên những tội ác vô cùng dã man đối với nhân dân ở các tỉnh
biên giới. Với những cuộc tấn công này, đụng độ biên giới đã trở thành cuộc
chiến tranh biên giới thật sự.
Để
cho bọn tay sai của mình có đủ “sức mạnh” tấn công xâm lược Việt Nam, Trung
Quốc đã tăng cườngviện trợ cho “Campuchia dân chủ? và rêu rao rằng đó
là biện pháp tất yếu để Campuchia chống lại “sự xâm lăng của các nước láng
giềng”(53).
Trung
Quốc còn giúp cho Pol Pot – Ieng Sary tăng cường xây dựng quân đội, tăng quân
số từ bảy sư đoàn ở năm 1975 lên 23 sư đoàn vào năm 1978 (từ 50.000 lên 130.000
quân). Đặc biệt chúng làm biến chất quân đội, chỉ có hai nhiệm vụ: tàn sát
những người dân vô tội, những người chống đối trong nước và tiến hành tấn
công, tiêu diệt người Việt Nam. Về tư tưởng, Pol Pot ra sức tuyên truyền kích
động “hận thù dân tộc”, gọi Việt Nam là “kẻ thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp”.
Đỉnh cao là việc chúng cho xuất bản cuốn “Sách đen” vào tháng 9-1977, nhằm
bôi nhọ sự thật lịch sử, kêu gào tiêu diệt toàn bộ giống nòi Việt Nam.
Tháng
8-1978, nhằm mục đch giúp Pol Pot – Ieng Sary dốc toàn bộ lực lượng vào chiến
tranh tiêu diệt Việt Nam, Trung Quốc đang ra hòa giải làm bình thường hóa cho
mối quan hệ căng thẳng giữa Campuchia – Thái Lan. Đại bộ phận quân đội Pol Pot
– Ieng Sary đóng trên vùng biên giới Campuchia – Thái Lan được tập trung về
biên giới Campuchia – Việt Nam.
Đượcsự
chỉ đạo trực tiếp và ủng hộ mạnh mẽ của nhà cầm quyền Bắc Kinh từ phía sau, bọn
Pol Pot đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tới một mức độ ác liệt
nhất((54)
Khi Wilfred Burchett hỏi: “Làm thế nào để một nước Campuchia khi đó có 5-6
triệu dân dám nghênh chiến với một nước Việt Nam đã từng dày dạn chinh chiến
có tới hơn 50 triệu dân?”. Đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng
Ngoại giao Việt nam đặt lại câu hỏi: “Vì sao một nước Israel có 3 triệu dân
lại dám xâm lăng một nước Ai Cập có tới 35 triệu dân? Bởi vì Khmer đỏ được
bảo đảm rằng sau lưng chúng là cả 800 triệu người Trung Quốc, cũng như Israel có
cả sức mạnh của Hoa kỳ làm chỗ dựa” – TGĐT.54).
Bước
vào năm 1978, Bắc Kinh công khai chống Việt Nam, bằng nhiều thủ đoạn cực kỳ hèn
hạ,… Nhưng tất cả cái gọi là chiến dịch “nở hoa” tấn công vào Việt Nam một cách
toàn diện trong cùng một thời gian trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại
giao, quân sự,…((55)
Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd.55)
đều bị thất bại thảm hại, buộc tập đoàn maoist Bắc Kinh phải quyết định tấn
công quân sự vào Việt Nam.
Do
những tính toán sai lầm của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, cuộc tiến công
đại quy mô của chúng vào biên giới Tây Nam Việt Nam phải trả giá bằng cuộc phản
công tự vệ quyết liệt của các lực lượng vũ trang Việt Nam. Bằng những cuộc
phản kích có hiệu quả, lực lượng vũ trang Việt Nam đã tiêu diệt các lực lượng
tham chiến của Pol Pot ngay trên đất Việt Nam, sau đó kết hợp với lực lượng vũ
trang của những người yêu nước Campuchia, nhanh chóng chuyển sang tiến công
bọn chúng trên đất Campuchia, tiêu diệt quân đội Pol Pot – Ieng Sary ngay tại
nơi xuất phát của chúng. Thắng lợi của quân đội Việt Nam, tạo điều kiện cho
nhân dân Campuchia vùng dậy giành chính quyền về tay mình.
Bắc
Kinh ngạo mạn tuyên bố: “đánh sập huyền thoại bách chiến bách thắng của Việt
Nam”, “dạy cho Việt Nam một bài học”. Nhưng chính thất bại thảm hại ở gọng kìm
Tây Nam, đã làm cho gọng kìm chính diện phía Bắc trở nên trơ trọi, đơn
độc và cuối cùng bị thất bại hoàn toàn((56) Trung Quốc xua quân xâm lược Việt
Nam ngày 17-02-1979 – Và nhận xét của Wilfred Burchett: ”Trên mặt trận
chính, cửa ải Lạng Sơn, các đơn vị chính quy Trung Quốc chỉ tiến được 16
km trong 16 ngày đánh nhau với bộ đội biên phòng và dân quân địa phương.
Cho tới nay, đây là cuộc tiến quân chậm chạp nhất – dù cho đã có xe tăng và xe
vận tải thay thế cho ngựa và lính bộ chân đất – trong toàn bộ 2.000 lịch sử
Trung Quốc xâm lược Việt Nam”.56). Hơn 600.000 quân Trung Quốc với đầy đủ
trang bị hiện đại đã phải rút về nước và ngày 05-3-1979, giới cầm quyền phản
động Bắc Kinh buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam.
Một
thực tế lịch sử chứng minh rằng, dù giới cầm quyền Bắc Kinh có sử dụng bất kỳ
thế lực phản động tay sai nào nhằm tấn công chống lại cách mạng Đông Dương cuối
cùng cũng nhất định sẽ bị chính sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba
nước Đông Dương đánh bại.
Chính
vì mộng tưởng làm bá chủ thiên hạ, giới cầm quyền phản động Bắc Kinh đã không từ
bất kỳ một thủ đoạn thâm hiểm, độc ác nào để thực hiện cho bằng được mục đch
ngông cuồng của mình, nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại. Bọn Pol Pot – Ieng
Sary – Khieu Samphan đã bị nhân dân Campuchia vùng dậy lật đổ. Nhưng giới cầm
quyền phản động Bắc Kinh đã đặc biệt độc ác khi chỉ đạo, ủng hộ bọn tay sai của
mình tiến hành chính sách diệt chủng chống lại nhân dân Campuchia, tiêu diệt
toàn giống nòi Việt Nam, tàn sát những dân tộc thiểu số trong nước và giết hại
những dân tộc láng giềng.
_3. TỘI ÁC CỦA TẬP ĐOÀN
PHẢN ĐỘNG POL POT – IENG SARY CHỐNG NHÂN DÂN VIỆT NAM LÀ TỘI ÁC DIỆT CHỦNG
Chủ
nghĩa dân tộc cực đoan của bọn Pol Pot – Ieng Sary đã được chủ nghĩa bá quyền,
bành trướng Đại Hán nhân lên gấp bội. Chính vì vậy, bọn Pol Pot – Ieng Sary đã
coi “Việt Nam là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu”, chúng ra “Sách đen“(57) tuyên truyền kích động “hận thù dân
tộc”, điên cuồng hơn nữa chúng kêu gào: “Toàn thể giống nòi Việt Nam
phải được coi là kẻ thù”, kêu gọi mỗi người Campuchia phải tiêu diệt được
30 người Việt Nam, để có thể tiêu diệt hoàn toàn dân tộc Việt Nam với 60 triệu
người.
Với
ý tưởng điên rồ đó, bằng mọi cách bọn Pol Pot – Ieng Sary đã thực hiện cho bằng
được mưu đồ tiêu diệt dân tộc, tiêu diệt đất nước Việt Nam. Ngay từ những năm
đầu của thập niên 1970, chúng đã tiến hành những chiến dịch tàn sát hàng vạn
Việt kiều tại Campuchia, tiêu diệt các đơn vị vũ trang Việt Nam đang giúp đỡ
chúng. Và khi chiếm được quyền thống trị ở đất nước Campuchia, chúng từng bước
xâm phạm biên giới Việt Nam, cuối cùng để “tiêu diệt Việt Nam ngay trên đất
Việt Nam”, chúng ra sức tuyên truyền vu khống, tạo cớ phát động một cuộc
chiến tranh toàn diện nhằm tiêu diệt toàn bộ giống nòi Việt Nam. Bọn chúng đã
thực hiện tội ác với những cách thức giết người tàn bạo dã man nhất mà thời
trung cổ và kể cả bọn phát xít Hitler còn chưa sánh kịp.
Trong
CÔNG ƯỚC VỀ NGĂN NGỪA VÀ TRỪNG TRỊ TỘI DIỆT CHỦNG được
Liên hợp quốc thông qua và các nước trên thế giới ký kết ngày 09-12-1948, ở Điều
2 ghi rõ: “Trong công ước này, diệt chủng có nghĩa là bất kỳ
những hành vi nào cố ý tiêu diệt toàn bộ hay một phần, một dân tộc, chủng tộc,
sắc tộc hay một nhóm tôn giáo”. Và, ở Điều 3 quy định: “Những
hành vi sau đây sẽ bị trừng trị: a) Diệt chủng; b) Âm mưu phạm tội diệt chủng;
c) Kích động trực tiếp và công khai để phạm tội diệt chủng; d) Cố tình phạm tội
diệt chủng; e) Đồng phạm tội diệt chủng”. Căn cứ vào các Điều quy định của
Công ước, thì những âm mưu và hành vi tội ác của bọn chúng Pol Pot – Ieng Sary
đã gây ra đối với nhân dân Việt Nam chính là TỘI ÁC DIỆT CHỦNG.
Đồng
thời, nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng phải chịu trách nhiệm vì đã ủng hộ, giúp đỡ,
xúi giục, che chở cho chế độ khát máu này chống lại nhân dân Việt Nam. Bọn Pol
Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan cùng giới lãnh đạo Bắc Kinh đã phạm phải những
tội ác tày trời chống lại loài người.
PHẦN
KẾT LUẬN
Từ
khi phải rút lui một cách bắt buộc khỏi Đông Dương, Mỹ đã tận dụng mọi khả năng
để làm mất ổn định khu vực này, gia tăng mọi nhân tố có thể làm cho nước Việt
Nam chiến thắng phải sụp đổ. Mỹ và Trung Quốc cuối cùng cũng đã tìm thấy cơ sở
để hợp tác trong lĩnh vực đối ngoại. Mối quan tâm của Trung Quốc trong việc làm
cho những người láng giềng phía Nam suy yếu để thực hiện mưu đồ bành trướng của
mình, đã đưa Trung Quốc đến chỗ câu kết với kẻ thù không đội trời chung trước
kia của họ là Mỹ. Kết quả là hai cường quốc to lớn này – một “đất nước anh
hùng của xã hội chủ nghĩa” và một “con hổ giấy”(1) – đã chung sức ủng hộ và bảo vệ chế độ
Pol Pot – Ieng Sary ở Campuchia, một bọn khủng bố, diệt chủng. Mọi tội ác của
bọn Quốc xã Hitler đều được bọn Khmer đỏ lặp lại và lặp lại “có sáng tạo”,
phát minh thêm nhiều cái mới. Hitler và những tên Quốc xã khác đều là những tên
đồ tể, hiện thân của những gì được coi là tột cùng của cái ác trong thời đại
chúng ta. Thế nhưng, tội ác của chúng vẫn chưa thấm tháp vào đâu nếu đem so với
những tội ác của Khmer đỏ do bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan cầm đầu:
- Hitler đã cố tiêu diệt người Do Thái, người Slave, người Zigal và những người “không thuộc giống Aryan” khác. Còn Pol Pot thì quyết tâm tiêu diệt không chỉ người Việt Nam, người Hoa, người Chăm theo đạo Hồi và các nhóm người theo thiểu số khác, mà cả những người thuộc giống Khmer của chính bản thân hắn.
- Hitler bắt người từ Pháp, Ba Lan và các nước khác làm nô lệ và buộc họ làm việc đến chết trong các trại lao động. Còn Ban lãnh đạo Khmer đỏ thì lại biến đất nước thành một trại tập trung khổng lồ.
- Hitler đốt cháy và làm ô uế các giáo đường Do Thái, ngược đãi các nhóm tôn giáo. Còn Khmer đỏ thì lại đàn áp mọi hình thức lễ bái tôn giáo. Bọn chúng biến nhà chùa đạo Phật, thánh đường đạo Hồi và nhà thờ đạo Thiên Chúa thành các trung tâm tra tấn, thành chuồng lợn, thành kho chứa, hoặc đơn giản hơn là phá tan tành.
- Hitler đốt sách của các nhà văn chống phát xít. Còn Pol Pot và bè lũ thì đốt tất cả các sách vở và thư viện, chà đạp lên mọi di tích truyền thống và nền văn hóa Campuchia.
- Hitler tìm cách dồn phụ nữ Đức trở lại vai trò “bếp núc, nhà thờ và con cái”. Còn Khmer đỏ thì tách vợ khỏi chồng, cha mẹ khỏi con cái, và thủ tiêu hoàn toàn cuộc sống gia đình.
- Hitler dùng phòng hơi ngạt để giết hàng loạt người và để che giấu tội ác này, chúng phải tiến hành tội ác bí mật trong các trại giam hẻo lánh, xa nơi dân cư. Bọn Pol Pot đã trắng trợn, công khai tiến hành tội ác ngay ban ngày ban mặt, tàn sát con người bằng những cách thức cực kỳ vô nhân đạo, mà không sợ mọi người nhìn thấy.
Thực
chất chế độ Pol Pot – Ieng Sary là “một nền độc tài phát xít đẫm máu kết hợp
với một nền độc tài thời phong kiến trung cổ, đội lốt chủ nghĩa xã hội”.
Như
vậy bọn đao phủ Pol Pot – Ieng Sary, tay sai của Bắc Kinh, đã đồng thời phạm
hai tội ác liên quan chặt chẽ với nhau: diệt chủng chống nhân dân
Campuchia và gây chiến tranh xâm lược nhằm diệt chủng dân tộc Việt Nam.
Pol
Pot – Ieng Sary phải được xếp vào số những tội nhân lớn nhất trong lịch sử. Chế
độ đáng kinh tởm của nó đã ghi vào lịch sử thế giới những dòng chữ khủng khiếp
không bao giờ phai mờ.
Thế
giới ngày nay trong bối cảnh trật tự cũ đã tan vỡ, trật tự mới chưa hình thành
rõ ràng. Các thế lực đế quốc, các nước lớn chẳng những không từ bỏ mà còn đeo
đuổi những mục tiêu riêng nhằm giành quyền bá chủ toàn cầu, buộc các nước nhỏ
hơn phải phục tùng ý chí của chúng. Xưa kia, chúng đi xâm chiếm thuộc địa và vơ
vét tài nguyên của các nước khác, chúng viện cớ đi truyền bá đạo Thiên chúa và “khai
hóa văn minh” cho những dân tộc “mọi rợ”. Những giá trị đó nay đã
lỗi thời, giờ đây chúng đưa ra những giá trị mới để thế giới phải tuân theo,
như giá trị: “dân chủ”, “nhân quyền”, “nhân đạo”, “kiến tạo hòa bình”, “tự
do hóa thương mại”,… Chúng bất chấp luật pháp quốc tế, lợi dụng ưu thế về
quân sự và thực lực kinh tế hùng mạnh để can thiệp vào công việc nội bộ của các
quốc gia có chủ quyền.
Vấn
đề là ở chỗ, các thế lực đế quốc, nước lớn trên thế giới ngày nay, một khi vì
lợi ích riêng của mình, họ không ngần ngại sử dụng, xúi giục, che chở, bảo vệ
bọn phản động, bọn đao phủ trước dư luận thế giới, để bọn chúng thực hiện mọi
tội ác, cho dù tội ác đó chống lại loài người. Việc vạch trần tội ác diệt chủng
của bọn Pol Pot – Ieng Sary đối với nhân dân Việt Nam nhằm nhắc nhở tất cả các
chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa vì sự tiến bộ xã hội, và lực lượng
yêu chuộng hòa bình trên thế giới về những quá khứ khủng khiếp mà nhân dân Việt
Nam đã chịu đựng, để những tội ác này không còn có cơ hội xảy ra ở bất cứ nơi
đâu trên trái đất. Đồng thời nhắc nhở mọi người Việt Nam luôn cảnh giác đối với
các lực lượng thù địch còn đang rình rập vẫn còn kêu gào chống lại dân tộc Việt
Nam, giết hại người Việt Nam. Sao cho những điều khủng khiếp tương tự như đã
xảy ra ở Ba Chúc vào năm 1978 sẽ không bao giờ được phép tái diễn, bất cứ nơi
đâu đối với dân tộc Việt Nam.
Quá
khứ thì đã khép lại để chúng ta hướng về tương lai, nhưng những gì đã diễn ra ở
Ba Chúc, Hà Tiên, Tây Ninh,… tất cả chúng ta không bao giờ được quên./.
NGUYỄN ĐOÀN BẢO TUYỀN
_____________________________
(32) Theo nhà nghiên cứu Ben Kirnan, trong năm 1973, một tiểu ban của Thượng nghị viện Mỹ đã thống kê, chiến tranh ở Campuchia đã tạo nên 3.368.000 người tị nạn trong tổng số 7 triệu người.
(33) Sách trắng Bộ Ngoại
giao nước CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong
30 năm qua – sđd, tr. 13.
(34) (35) Sách trắng Bộ
Ngoại giao nươc CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
trong 30 năm qua – sđd, tr. 14.
(36) Các đảng cộng sản
theo chủ nghĩa Mao, đ?ợc Trung Quốc giúp đở ở Thái Lan, Indonesia, Malaysia,
Philippines,… - TGĐT.
(39) Anh họ của Sihanouk,
sau 1975 giữ chức Bộ trưởng Tư pháp bù nhìn cho Chính phủ Campuchia dân chủ,
năm 1977 bị bọn Pol Pot thủ tiêu. – TGĐT.
(40) Tìm hiểu lịch sử
– văn hóa Campuchia (tập 1) – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1983, sđd, tr.
117.
(41) Ở Campuchia, trư?c
năm 1975 có 400.000 ngư?i Hoa, chiếm 5% dân số, nhưng nắm trong tay 98% các cơ
sở công nghiệp - P.TS Trần Khánh – Vai trò ngư?i Hoa trong nền
kinh tế các nước Đông Nam Á – Viện Khoa học xã hội Việt Nam-Viện Đông Nam
Á học – Hà Nội 1992.
(43) Những cán bộ, đảng
viên kỳ cựu của Đảng Pracheachon từ khi Đảng mới thành lập vào năm 1951 – TGĐT.
(49) Son Sen đã học ngành
Sư phạm tại Paris, từng giữ chức vị lãnh đạo tại Trường Đại học Sư phạm Phnom
Penh thời Sihanouk. Chính vợ chồng tên đồ tể Son Sen – Yun Yat này cùng toàn bộ
gia đnh gồm 11 người, lại bị Pol Pot ra lệnh tàn sát vào 10-6-1997 – TGĐT.
(50) “Tên đồ tể?
Ta Mok, sinh khoảng năm 1927, tại xã Tropeng Thom, huyện Tram Koh, tỉnh Takev.
Tham gia chống Pháp trong phong trào Israk (tổ chức của ngững ngư?i cộng
sản Khmer trong Đảng Cộng sản Đông Dư?ng). Ngày 20-3-1976, giữ chức Phó Chủ
tịch Quốc hội Campuchia dân chủ. Từ tháng 11-1978, làm Phó Bí thư thứ hai Đảng
Cộng sản Campuchia, phụ trách các vùng nông thôn. Ngoài ra còn giữ chức Tổng
Tham mưu trưởng quân đội Campuchia dân chủ.
Hắn
bị quân đội Chính phủ Hoàng gia Campuchia bắt ngày 06-3-1999 ở gần Anlong Veng
thuộc vùng biên giới giáp Thái Lan.
(51) Kaing Khek Iev – anh
Deuch, con một gia đnh nông dân nghèo tỉnh Kampong Thom, là một học sinh
xuất sắc nên đ?ợc chọn vào học Trường Lycee Sisowath tại Phnom Penh. Năm 1959,
Duech đ?ng thứ hai trong kỳ thi học sinh giỏi cấp III toàn quốc. Sau đỗ
thủ khoa về ngành toán ở trưởng đại học. Trở về Kampong Thom làm Phó Hiệu
trư?ng và dạy toán tại một trường phổ thông. Năm 1967, bị Sihanouk bỏ tù ba
năm vì chống chính phủ. Sau khi ra tù, Deuch vào rừng theo Khmer đỏ.
Dưới thời Pol Pot, hắn phụ trách nhà tù – trung tâm tra tấn Toul Sleng, nơi đây
khoảng 20.000 ngư?i đã bị sát hại, sau khi chế độ diệt chủng Khmer đỏ sụp đổ,
hắn thay tên đổi họ và chui vào làm việc cho một tổ chức cứu trợ của tôn giáo ở
tỉnh Batdambang. Hắn bị Chính phủ Vư?ng quốc Campuchia bắt ngày 08-5-1999 –
TGĐT.
(53) Trong đợt truy quét
bọn tàn quân Khmer đỏ, bắt hụt Pol Pot và Ieng Sary ở Ta Sanh hồi tháng 3-1979,
quân tình nguyện Việt Nam và quân đội cách mạng Campuchia thu được nguyên vẹn
toàn bộ kho lưu trữ của Khmer đỏ. Có những tài liệu nói về việc cung cấp vũ
khí, cố vấn,… của Trung Quốc cho Campuchia dân chủ. Ví dụ:
Từ tháng 10-1975 sẽ chuyển giao 13.300 tấn vũ khí gồm súng ống, đạn dư?c, xăng
dầu và xe cộ.
Bản dự thảo chuyển giao vũ khí từ 1976 tới cuối năm 1978 gồm: pháo phòng không,
radar, tàu hộ tống, tàu phóng ngư lôi, xe tăng, pháo binh, thiết bị thông tin,
thiết bị công binh, máy bay chiến đấu, máy bay ném bom,… Phương thức vận chuyển
bằng đường biển và giao tại cảng Kompong Saom. Việc cung cấp cố vấn để lắp ráp
lại và hướng dẫn sử dụng vũ khí. Những chi tiết kỹ thuật và có nêu những khó
khăn đối với Trung Quốc trong việc chuẩn bị văn bản bằng tiếng Campuchia, đặc
biệt Trung Quốc phàn nàn việc thiếu người Campuchia làm phiên dịch tiếng Hoa,…
- Xem thêm Uyn-phrết Bớc-sét – Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam,
sđd, tr. 200-205.
(57) Các tác giả của “Sách
đen” thể hiện sự dốt nát của chúng đối với những gì đã toát ra từ cuộc
kháng chiến chống Pháp. Chúng không trực tiếp chiến đấu cùng nhân dân. Với cách
gọi “Việt Nam –kẻ thù số một”, chúng đã nhập chung lại với nhau: các thế
lực cầm quyền phong kiến Việt Nam, Việt Minh và “Việt Cộng” (bạn chiến đấu của
Campuchia chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) cùng chế độ bù nhìn Sài Gòn (mà cả
Việt Minh và “Việt Cộng” đã anh dũng chiến đấu chống lại). Phản ánh nhận thức
chính trị thấp kém và định kiến chống Việt Nam tới mức cuồng dại của Ban lãnh
đạo Pol Pot – Ieng Sary.
Ben Kirnan và Chantha Bua nhận xét: “Sách đen là hoàn toàn nhảm nhí”.
(1) Những từ ngữ mà giới
lãnh đạo Bắc Kinh giành cho Trung Quốc và dành cho kẻ thù đế quốc Mỹ của họ
trước đây – TGĐT.
Nguồn: VCV
No comments:
Post a Comment