“Với tư thế thi sĩ, là kẻ tiên đoán những ẩn
ngôn, là kẻ cứu chuộc sự ngẫu nhiên, ta đã dạy loài người sáng tạo tương lai và
trong khi sáng tạo, giải thoát những gì đã xảy ra.” (Zarathustra đã nói như thế
– Nietzsche)*.
1.
Trong cuộc
hiện sinh, kinh qua ý thức về sử tính của mình, con người chua chát nhận ra
rằng thế giới và tha nhân đã có đó, đã xảy ra…, dửng dưng như một sự đã-rồi. Và
lắm lúc sự đã-rồi là điều nhục mạ thân phận con người. Dù con người có phản
tĩnh, tra hỏi ý nghĩa kỳ cùng của cuộc đời, hay liệu có một Thượng đế bí
hiểm, tánh khí bất thường, khó chịu nào đó đã nhào nặn Định Mệnh hay không,
trần gian cũng đã bày ra muôn vàn vẻ mặt đọa lạc, tàn nhẫn, bất hòa với ý chí
con người. “Chúng ta sinh ra quá muộn màng, mọi điều đã được phát biểu…” một
nhà văn đã than van như thế. Hay nhìn theo nhận thức luận, nền văn minh nhân
loại – thành quả của lý trí – có thể ví như một gã khổng lồ, mà sau những nỗ
lực trí tuệ, tâm linh uyên áo nhất mới đứng được trên vai hắn, những nhà hiền
triết, đạo gia, tức những nhân cách ưu việt hiếm hoi trong các thế hệ loài người
đều mong mỏi nhìn sâu, nhìn xa hơn vào lịch sử.
Phải đứng ở
một vị thế cao vời như “trên vai” của nền văn minh đã có, những bộ não ưu việt,
có tâm thức thâm sâu mới có thể phát hiện những hố thẳm, những sa mạc chôn vùi
Chân tính con người và thế giới. Rồi bằng những cung cách khác nhau, các nhà
hiền triết, các nhà tiên tri tìm cách chia sẻ, rao giảng thị kiến bi đát ấy cho
quần chúng trong xã hội. Tuy nhiên, do quán tính trì độn của tâm thức xã hội
thời nào cũng vậy, các nhà tiên tri đi rao giảng “chân lý mới” thường là kẻ lỗi
thời ngay bên cạnh những người cùng thời đại.
Zarathustra
– nhà tiên tri trong tác phẩm Zarathustra đã nói như thế (Ainsi
parlait Zarathustra) của triết gia người Đức Friedrich Nietzsche -
đã lầm lẫn trong thiện chí của mình ngay trong những bước chân đầu tiên bước
xuống thế gian, là những thung lũng, làng mạc, công trường…, có đám dân làng
đang sống lấy những mối bận tâm trần gian, bằng một đời sống đã diễn ra như
thế, như thể đã tựu thành hoàn chỉnh đâu đó tự lúc nào.
Đã bằng cung
cách ngạo nghễ, chế diễu, phẫn nộ, và cả nước mắt, Zarathustra rao giảng những
điều mình muốn truyền đạt, nhưng hầu như trần gian đã quá chật chội, không còn
một chỗ trống nào cho những lời nói mới mẻ. Trần gian không còn chỗ nào cho
Chân tính của thực tại. Nếu có vấn đề nào đó nên được đặt ra, người ta chỉ còn
tự hỏi tại sao đến giờ phút này còn có kẻ còn muốn thưa thốt, đề nghị này nọ…
Tại sao còn
phải có những triết lý mới trong khi người ta đã có một Quá Khứ cung cấp đầy đủ
mọi câu giải đáp cho mọi vấn đề?
Zarathustra
định rao giảng Khả tính con người – loại Khả tính siêu việt nhất – ở một
nơi bị goi cưỡng ép là trần gian vì nơi này hầu như không còn có con người,
theo nghĩa không còn ai đặt vấn đề. Và con người mạt cùng của nhân loại đó là
đám tiện dân. Đám tiện dân đã có quá đủ! Nào là Hư vô chủ nghĩa giúp việc hoàn
hảo cho nỗi an tâm trần thế bằng muôn ngàn lời dịu ngọt. Nào là những bậc hiền
triết đi rao giảng giá trị cao quý của… giấc ngủ. Có vị lại dạy về khí hậu đầm
ấm của “cõi bên kia”, nơi có một Thượng Đế nghiêm khắc nhưng thật tốt bụng khi
chăn dắt linh hồn con người. Vị khác lại kêu gọi sự khinh miệt thân xác để
chóng giải thoát được linh hồn vốn dĩ mong manh, èo uột.Và cũng có một số tiện
dân học được tâm thức hư vô cao nhất - theo nghĩa hư đốn trầm trọng nhất:
khước từ đời sống.
Đó là đại
lược về những giường êm, nệm ấm do ai đó - tạm gọi là hiền triết - đã dành sẵn
cho những thao thức được mệnh danh là “thao thức siêu hình” của đám tiện dân.
Có khi bọn này còn tự mắng chửi chính mình, rằng còn phải ưu tư, thao thức gì
nữa một khi chính sự suy tư này nọ đã kiếm được một chỗ ăn ở vô cùng dễ chịu
(bien-être) như thế.
Bước sang
một lãnh vực khác của đời sống – quẩn quanh với những con người đang sống thở,
cũng suy tư này nọ, ở một nơi gọi là xã hội – là lãnh vực của chân lý và đạo
đức, có gì lạ trước mắt Zarathustra?
Xin mời bước
ra công trường để nhìn mặt những con người đạo hạnh (les vertueux), con người
công chính (les justes), con người tao nhã (les nobles), con người lương thiện
(les bons)… Đây là những kẻ an tâm nhất về những danh hiệu mà bằng một cách nào
đó xã hội đã gắn thêm vào vẻ đạo mạo tức vẻ bất động hoàn hảo của họ. Ghê gớm
nhất là bọn người đạo hạnh. “Cũng còn có những kẻ khác ngồi xổm trong đám lầy
của họ giữa những thân lau sậy, và bảo ‘đức hạnh, chính là cứ ngồi im trong ao
đầm lầy lội’. Chúng tôi không cắn ai, và chúng tôi cũng tránh kẻ muốn cắn xé;
về tất cả mọi sự, chúng tôi chia sẻ ý kiến mà thiên hạ đưa ra cho chúng tôi.” .
Tất cả những
cảnh tượng ủ ê, thảm não của xã hội loài người như trên đã lắm lúc đuổi trả
Zarathustra về với hang động, bờ biển, đảo vắng xa xăm.. . Zarathustra thối lui
về với niềm cô đơn của mình thay vì đã chịu cô đơn quá lâu giữa công trường
huyên náo.
Tất cả là
những-sự-đã-rồi của Quá Khứ u tối, vì tất cả đã thành tựu với đầy đủ các món
điểm trang cho mọi mặt đạo đức, triết lý, đời sống xã hội của con người.
Như thế, có
phải Ý chí Cường lực (la Volonté de Puissance) nhằm đảo lộn mọi giá trị
(Umwertung derwerte) của Nietzsche muốn đặt vào tay con người đã chỉ là một cố
gắng tuyệt vọng?
2.
Để trả lời
câu hỏi trên, xin trở lại với tiến trình suy tưởng của chính triết gia.
Trước tiên,
Nietzsche đã sáng tạo tác phẩm Zarathustra đã nói như thế trong một
nghịch lý thâm sâu. Chính trong nghịch lý, ông đã thai nghén ra một tác phẩm mà
về tên gọi của nó ông cũng phân vân, như ông viết trong bức thư cho nhà xuất
bản: “Đây là một bài thơ, một cuốn Phúc âm thứ năm, một điều mới lạ tuyệt đỉnh
chưa có tên gọi.”
Nghịch lý
đầu tiên ấy là về mặt sinh thành, Nietzsche đã không đơn phương sáng tác ra và
sử dụng nhân vật Zarathustra mà thực tế triết gia đã tự thực hiện một hóa thân.
Nói khác đi, bằng hư cấu, nhà tiên tri Ba Tư cổ đại Zarathustra đã được hóa thân
vào Nietzsche, đồng lúc mang cái bầu khí sẵn có của lịch sử (bao hàm những ý
tứ, văn ảnh, ngôn ngữ của nước Ba Tư cổ đại như một giai đoạn lịch sử có-đó
nhất định, cung cấp cho ngòi bút của triết gia vô vàn dữ kiện) trộn lẫn với bầu
khí của văn hóa học thuật Đức quốc hậu bán thế kỷ 19. Đó là sự trộn lẫn hai
hình ảnh đồng lúc chở đầy tình cảm của triết gia nhưng lại là hai tình cảm đối
kháng, kình địch. Nietzsche càng yêu tâm thức người Ba Tư biết quan niệm mỗi
giai đoạn tiến hóa được tiên báo bằng những nhà tiên tri (điển hình như
Zarathustra) bao nhiêu thì ông càng ghét tinh thần triết học duy lý-niệm của
Đức quốc thời đó bấy nhiêu (đưa đến chỗ Nietzsche chán ngán chính dân tộc Đức
của ông - điều này được nói rõ trong tập Ecce Homo).
Có lẽ do sự
đối kháng chua xót giữa hai tình cảm nói trên nên trong tác phẩm Zarathustra
đã nói như thế, triết gia đã chọn thi ca làm bộ mặt của thị kiến nội tâm.
Trong thiên trường thi triết lý này, Zarathustra, nhân vật chính đã chỉ phát
biểu bằng ẩn ngôn, mật ngữ. Luôn luôn, mảnh đất của ẩn ngôn, ẩn ngữ - nhất là
trong thi ca – là một cõi bờ không thể đáo cùng trong thế giới tư tưởng con
người.
Nietzsche là
một nhà thơ – nhà thơ bí hiểm? Phải nói là tất định có một loại thi ca được
dùng tới như vạn đại chưa hề có thi ca, quá khứ chưa hề có thi ca, để
chuyên chở ẩn ngôn. Và chính ẩn ngôn được Zarathustra nói ra như thị kiến (nơi
trí tuệ biến thành tư tưởng) như số kiếp ngôn ngữ phải nhất thiết hiện thể
trong cõi trần gian còn vô thanh bất động. Nhiều học giả thích ví von thiên
trường thi Zarathustra đã nói như thế của Nietzsche bằng những chiều
cao (của núi, của mây) và chiều sâu (của hố thẳm), như thể muốn không-gian-hóa
những ẩn ngôn của Zarathustra.
Cũng có thừa
mứa những “mây”, những “núi”… nơi đám thi sĩ, nhưng Zarathustra lại phàn nàn về
họ. “Tư tưởng của chúng (đám thi sĩ) không thâm nhập đủ sâu, chính vì tình cảm
chúng không xuống đến tận những hố thẳm.” Mặt khác, ẩn ngôn còn là hiện thể bi
đát của ngôn ngữ đáng lẽ được giữ lại trong im lặng, vùi chôn trong câm nín. Ẩn
ngôn khai sinh trong sự tuyệt cùng của mọi hy vọng, mong mỏi được thấu hiểu. Ẩn
ngôn là hóa thân cay đắng của tư tưởng hiển thể nhô lên trong bóng tối của nỗi
tuyệt vọng về sự bất lực của khả năng truyền đạt thị kiến. Đến đây thì ẩn
ngôn nơi Zarathustra chính là một nghịch lý tiềm tàng trong tâm thức Nietzsche.
Một ít về
lịch sử cho biết Nietzsche đã khởi phát - bằng những dày vò, chịu đựng thống
khổ nhất - trực giác về sự Phục Diễn Bất Tận (le retour éternel) tại Surley
tháng 8/1881. Tuy mang nặng ám ảnh từ biến cố này, Nietzsche đã vẫn viết xong
phần thứ ba của tác phẩm Ainsi parlait Zarathustra vào tháng 01/1884,
trong đó có một chương quan trọng nhất: “Về những bảng giá trị cũ và mới” (Des
vieilles et des nouvelles tables - bản chuyển ngữ của M. Betz).
Phải chăng
Nietzsche đã lướt trên nghịch lý giữa hai suy tưởng đối nghịch về “Phục diễn
bất tận” và “Đảo lộn mọi giá trị” để viết ra phần 3 nói trên?
Trên giả
định là có sự tương xung, tương khắc giữa hai suy tưởng đó, ta thấy thêm một
điều là ở ngay đầu phần 3 này, vị trí của các chương phát huy thị kiến về sự
Phục diễn bất tận (như chương “Về thị kiến và ẩn ngôn” cùng với “Bằng sự thông
qua” (cùng được trình bày bằng hình thức độc thoại) đã được tác giả đặt
ngay cạnh chương “Về những bảng giá trị cũ và mới” ở phần cuối. Đó cũng
là một ẩn số về trình tự (cố ý hay vô tình) của toàn bộ tác phẩm.
Thêm một
điều là suy tưởng về “Ý chí cường lực” (La volonté de puissance) mật thiết gắn
liền với suy tưởng “Sự đảo lộn mọi giá trị.” Có thể xem hai thị kiến trên là
cánh tay phải và cánh tay trái của người chiến sĩ triết lý: Siêu nhân
(Surhomme). Siêu nhân đã dấn thân quyết tử vào cuộc chiến khốc liệt với Định
Mệnh, nói khác đi là với chính Chân Lý tất mệnh của vũ trụ và con người, đó là
nhịp Phục Diễn Bất Tận. Xem ra Nietzsche đã suy tưởng, đã triết lý ở chân trời
của những vị thế hoàn toàn phản lập.
Nghi vấn sau
cùng là phải chăng đã có sự giảng hòa tối thượng giữa con người Siêu nhân và sự
Phục Diễn định mệnh, nên kỳ cùng, tác phẩm đã thành hình trọn vẹn trên sự sụp
đổ sau cùng của nghịch lý?
3.
Thật sự có
cuộc chiến khốc liệt giữa một bên là con người Siêu nhân kêu gọi đảo lộn mọi
giá trị và một bên là Định Mệnh phục diễn, quy hồi. Ở nhiều chỗ, Nietzsche còn
nhìn Định Mệnh như chính Quá Khứ bằng bộ mặt đã tựu thành đầy đủ của nó (triết
học duy lý-niệm, đức tin Ky tô giáo và Do Thái giáo , Hư Vô chủ nghĩa v..v..),
mà riêng đối với Nietzsche đây vốn là mảnh đất nẽ ra bảng giá trị hàm hồ của xã
hội con người thời bấy giờ (đức tin, các giá trị đạo đức, các chân lý vĩnh
cửu.v.v…) . Như đã trình bày ở phần đầu, đó là một trần gian mạt hậu, đến nỗi
Zarathustra đã kêu gào phải “Siêu vượt con người”, vì: “Toàn diện đời sống là
trộm cắp, sát nhân”.
Tuy nhiên,
song song với việc vạch mặt và đạp đổ những thực tại trì độn của chân lý, đạo
đức cũ, luôn luôn Zarathustra thuyết giảng cho đám tiện dân sự sáng tạo mới với
đầy đủ chân nghĩa nghiêm khắc nhất của Sáng Tạo: “Kẻ sáng tạo là kẻ ban cho
loài người một mục đích ban cho mặt đất ý nghĩa và tương lai: chỉ kẻ sáng tạo
mới sáng tạo nên Thiện ác vạn sự.”
Chính
Nietzsche cũng thú nhận ngay trong bản thân mình cũng mang vận hành nhịp đôi
“phá đổ/xây mới” ấy: “Đồng lúc, tôi vừa là một kẻ suy bại vừa là một cái gì
nguyên khởi bắt đầu. Chính điều này, hơn hết, giải thích tính chất trung lập
của đời sống tôi (…). Tôi có được một thứ cảm giác bén nhạy biết đánh hơi, biết
ngửi ra những thứ dấu hiệu về sự cất cánh bay cao và việc suy đồi, rơi rụng.” (Ecce
Homo – Nietzsche, bản chuyển ngữ của Phạm Công Thiện).
Như đã tuyên
xưng “triết lý bằng cây búa, bằng cốt mìn”, công việc phá đổ (nhịp một của vận
hành triết lý) nơi Nietzsche bao giờ cũng mãnh liệt qua bước chân của nhân vật
Zarathustra xuyên vượt những công trường, những giảng đàn, những non cao, bể
thẳm… - những nơi tập hợp của đám tiện dân. Hay đúng hơn, mũi nhọn của
Zarathustra hướng thẳng vào sự tựu thành ù lì của Quá Khứ đã
tường-đồng-vách-sắt bày ra bằng những nỗi an tâm, yên ngủ của con người. Đứng trước
những đức lý cũ kỹ cố định, Zarathustra đã thông tri bằng khẳng định: “Mọi sự
đều trôi chảy”, khiến đám tiện dân đã kêu ầm lên: “Sao! mọi sự đều trôi chảy à?
Bộ những tấm ván và lan can cầu không bắc qua sông đó sao? Ở bên trên con sông,
mọi sự đều vững chãi, những giá trị của vạn vật, những chiếc cầu, những khái
niệm, tất cả Thiện và Ác, tất cả mọi thứ đều rắn chắc, vững chãi mà!”.
Đó chính là
sự sợ hãi bị vỡ tan niềm an tâm dễ chịu của đám tiện dân trên giòng sông Biến
Dịch mà Nietzsche muốn in dấu Tính Thể. Đám tiện dân chỉ quen tin mọi sự đều là
Định Mệnh “Mi phải, bởi vì phải như thế” . Trong khi ở nhịp hai (xây mới) của
vận hành triết lý nơi Nietzsche ,Ý Chí Sáng Tạo dành lại mọi quyết định cho con
người:
“Giải thoát
loại Quá Khứ đang chế ngự nơi con người, và biến đổi tất cả những gì đã xảy ra,
cho đến khi nào Ý Chí lên tiếng rằng đã chính Ý Chí muốn như thế”.
Công việc
giải bỏ Quá Khứ chính là cứu chuộc sự Ngẫu Nhiên để sáng tạo Tương Lai, cũng
chính là Giải Thoát Con Người. Và công việc giải thoát con người ra khỏi Quá
Khứ không phải chỉ là việc làm nhất thời cho hiện sinh ở đây và bây giờ; nó còn
cấp thiết cho toàn bộ thực tại con người đong đưa giữa hai cõi vô hình và hữu
hình. “Linh hồn đang hiện thể, lao thẳng vào biến dịch, ước muốn đi vào ý chí
và ước vọng”, và chính xã hội con người là một tìm kiếm trường kỳ”.
4.
Thượng Đế đã
chết, con người bơ vơ với ‘gia tài’ hẩm hiu còn lại của mình là Tự Do, chẳng
biết dùng Thời gian và Sử tính đã được trao trả lại cho mình để làm gì. Bi đát
hơn là khi Chân lý bị ám sát, trống chỗ nên lại có người thừa cơ hội rao giảng
tất cả những gì đối kháng và thù nghịch với Sự Sống nguyên tuyền, nghĩa là rao
giảng Sự Chết … Lại thêm cảnh tượng bi thảm bày ra trước mắt nhà tiên
tri.
Như thế,
giải pháp cứu chuộc con người phải như thế nào và phải bắt đầu từ đâu?
Không có gì
khác hơn là Hy Vọng. Zarathustra đã đưa ra nhận định cuối cùng cho Quá
Khứ - như thể hiện tại chính là bộ mặt của Quá Khứ : “Lòng thương hại của
ta đối với tất cả Quá Khứ đã biểu lộ ra như thế: ta xem Quá Khứ như bị bỏ rơi”.
Và “những đứa con” của Zarathustra được nhắc nhở rất nhiều lần trong tác phẩm
chính là biểu tượng cho những hy vọng mà Nietzsche đặt vào một loài người mới,
một dân tộc mới: “Ta muốn, nhờ các con ta, chuộc lại tội đã làm của ông cha ta:
ta muốn cứu chuộc hiện tại này bằng toàn thể tương lai”.
Chính trong
phát biểu ngậm ngùi này của Zarathustra cho thấy rõ tâm tình bi đát của con
người – con người bất lực như đang hấp hối – vì lỡ đã đeo mang Quá Khứ, Lịch
Sử. Cái tội-lỗi-có-quá-khứ , hay “Tội đã làm con của cha ông ta” như
Zarathustra đã nhắc lại, phải được cứu chuộc. Chính Tương Lai cũng phải được
cứu chuộc.
Nhưng trớ
trêu là trong vòng biến dịch của sự Phục Diễn Vĩnh Cửu không hề có một tương
lai mới lạ nào đến với vũ trụ và con người. Cũng chính những gì xảy ra hôm nay
đã xuất hiện trong Quá Khứ và sẽ còn xuất hiện trong Tương Lai. Hãy nghe lời
của Zarathustra nói với “tên lùn”, tượng trưng cho lý trí trì độn:
“Mọi sự há
chẳng vương vấn, tương liên với nhau cho đến nỗi cái khoảnh khắc hiện tại này
đang lôi kéo theo sau mình tất cả những sự việc tương lai? Và như thế lôi kéo
theo cả chính mình (…) Chúng ta há chẳng phải quy hồi và chạy trở lại một lần
nữa trên con đường trước mắt (tương lai) đang phóng lên cao. Há chẳng phải
chúng ta phải vĩnh viễn quy hồi trầm luân trở lại?” .
Như thế, sau
cùng thì Zarathustra đã đành cúi đầu nói một tiếng “Vâng” thuận mệnh:
“Chớ gì ta
là một bốc sư đầy óc tiên tri đang bước đi trên một triền núi cao giữa hai vùng
biển (…) sẵn sàng loé lên ánh chớp giữa vùng đêm tối, sẵn sàng nhoáng lên tia
sáng giải thoát, chất chứa đầy những lằn chớp khẳng định chân ngôn, những lằn
chớp cười vang tiếng Vâng thuận mệnh!”. Từ đây con người chấp nhận một
chỗ ngồi trong Định Mệnh vạn đại và sẽ sống kiếp nhân sinh theo đúng luật Biến
Dịch phản phục vĩnh cửu. Con người được giải thoát khỏi Quá Khứ, như thần Atlas
được cất khỏi vai quả Càn Khôn nặng trĩu. Và từ đây, theo Nietzsche, trong định
mệnh con người “linh ư vạn vật”, hành trình tiến hóa từ con người bình thường
đến Siêu nhân - tức từ giá trị nhân sinh cũ chuyển thành giá trị nhân sinh mới
- nhất thiết là nỗ lực tư riêng của con người, miễn không ra ngoài lệ luật của
vũ trụ là Quy Hồi vĩnh cửu bất tận. Nghĩa là dù có vừa phá đổ vừa xây mới theo
vận hành nhịp đôi hết sức thông minh của trí năng, đó cũng chỉ là con người đặt
vấn đề với chính mình chứ không phải đổi trao với Thần Linh hay kêu cầu Mệnh
Số. Và trên hết mọi vấn đề là Hy Vọng.
5.
Phải chăng
đến đây là cuộc thánh chiến giữa Con Người và Tất Mệnh đã chấm dứt? Phải chăng
đến đây mọi nghịch lý đã được siêu vượt, dàn hòa trong tư tưởng Nietzsche? Và
sau cùng, do “Thượng Đế đã chết”, con người tiếp tục đặt câu hỏi - với chính
mình – về ý nghĩa của Hữu thể , về Thời tính, về Hiện hữu, về Hiện hữu Con
người, về tương quan giữa Con người và Thượng đế; về ý nghĩa của Tự do; về tình
trạng vong thân, tính phi lý, hữu hạn của đời người, thậm chí về hành vi tự
tử.v.v… Đó là những suy tư cốt tử của tư tưởng triết học hiện sinh sau này. Dù
là vô thần như Sartre, Camus hay hữu thần như Heidegger, thậm chí là vô thần
rồi quay sang hữu thần như Kierkegaard…, các hệ phái của tư trào triết học,
thần học, văn học - nghệ thuật… nhân bản này đều ít nhiều chịu ảnh
hưởng hay lấy hứng cảm từ tư tưởng Nietzsche - như vận số không tránh
khỏi của lịch sử tư tưởng - triết học Tây phương./.
* Các trích
dẫn trong bài dựa vào bản chuyển ngữ tiếng Pháp “Ainsi parlait Zarathustra”
của Maurice Betz (P.U.F. xuất bản).
PHẠM
NGA
No comments:
Post a Comment