Đời sống đô thị và sự lựa chọn đề tài sáng tác
Văn
học những năm sau chiến tranh đã bước sang một quỹ đạo mới, với sự hình thành
một đội ngũ viết mới bên cạnh thế hệ cầm bút đã đi qua chiến tranh. Sự thay đổi
trong đời sống xã hội, ở đây là đời sống đô thị hiện đại, đã góp phần tạo nên
những thay đổi trong đời sống văn học Việt Nam đương đại.
Có
một thực tế là trên văn đàn hiện nay dù có thời điểm gia tăng nhưng số nhà văn
chuyên tâm viết về đề tài nông thôn, miền núi không nhiều. Ngay cả một số cây
bút trước đây từng chọn miền núi, nông thôn làm chất liệu sáng tác thì đến nay
cũng đã có những thay đổi, có sự chuyển hướng. Sự thay đổi này một phần liên
quan đến sự dịch chuyển môi trường sống từ miền núi, vùng xa về thành phố của
chính người viết. Những người viết lựa chọn đô thị làm chất liệu sáng tác được
cộng hưởng từ sự hình thành một đội ngũ những người viết trẻ mà đa phần trong
số họ đều có thời gian sinh sống, học tập và làm việc ở các đô thị. Đã có những
ý kiến cho rằng, người viết trẻ hiện nay không quan tâm, hoặc né tránh những đề
tài như nông thôn, miền núi và thường viết về cuộc sống đô thị - trong đó có
cuộc sống của chính họ. Bị quy định bởi vốn sống, môi trường sống, sáng tác của
các cây bút trẻ thường đi vào những vấn đề của đời sống đương đại, về cuộc sống
của những người trẻ ở các đô thị hiện đại. Cũng chính bởi ý thức “đô thị mang
trong mình quá nhiều câu chuyện cần phải viết ra” mà đề tài đô thị thường được
trở đi trở lại trong các sáng tác. Bên cạnh đó là những người sáng tác ở tuổi
đời không còn trẻ, từng sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, từng có những
trải nghiệm của đời sống trước đây và đến nay chính họ lại là người chứng kiến
những đổi thay của xã hội. Sự xung đột giữa cái cũ và cái mới cũng là đề tài
được những cây bút này hướng tới.
Có
nhiều con đường để người viết đến với đề tài đô thị: một phần là do vốn sống,
sự trải nghiệm (với một số người là do sự hạn định về chất liệu nên chỉ có thể
lấy cuộc sống đô thị làm nội dung); sự hứng thú của người viết và đôi lúc cũng
rất ngẫu nhiên, đô thị là cái phông, là nguyên cớ để nhà văn xây dựng và chuyển
tải những thông điệp khác. Cũng cần phải nói rằng, sự lựa chọn đề tài đô thị
trong truyện ngắn một phần còn bị chi phối bởi đối tượng và thị hiếu độc giả.
Những tác phẩm viết về cuộc sống và con người đô thị hiện đại giành được sự
quan tâm của phần lớn độc giả trong khi khu vực văn học miền núi vẫn được cho
là kén chọn người đọc.
Đời
sống đô thị và sự thay đổi hình tượng văn học
Ở
Việt Nam đang diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh chóng. Điều này làm thay đổi
không chỉ bộ mặt các thành phố, trung tâm văn hóa - chính trị mà cả với nông
thôn, miền núi. Việt Nam từng trải qua một thời kỳ dài của kinh tế nông nghiệp
với những thói quen và nếp sống của cư dân nông thôn, kiểu sinh hoạt cộng đồng,
văn hóa làng xã và điều này tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó
có văn hóa, văn học. Nếu như trước đây hình tượng văn học thường trở đi trở lại
là nông thôn, nông dân, rồi chiến tranh, người lính - những khía cạnh được đề
cập thường xuất phát từ những vấn đề của nông thôn, của chiến tranh cách mạng
và theo đó đời sống của mỗi cá nhân luôn được đặt trong mối quan hệ với tập thể
- thì trong những thập niên gần đây văn học lại hướng nhiều đến việc thể hiện
đời sống thị dân, đời sống cá nhân trong môi trường của những đô thị hiện đại,
bao gồm cả không gian sinh tồn, bầu sinh quyển đô thị và những hoạt động, trạng
thái tinh thần của con người trong bối cảnh đó. Trong nhiều tác phẩm, hình ảnh
đời sống đô thị đã phần nào được biểu lộ qua nhan đề truyện ngắn, chẳng hạn:
Thành phố đi vắng, Thành phố không mùa đông (Nguyễn Thị Thu Huệ), Một chiều xa
thành phố (Lê Minh Khuê), Lạc chốn thị thành (Phong Điệp), Vết thương thành thị
(Đỗ Tiến Thụy), Huyền thoại phố phường (Nguyễn Huy Thiệp), Giai điệu thành thị
(Lý Biên Cương), Mênh mang lối phố (Đỗ Phấn); tên tác phẩm gắn với những địa
danh cụ thể của các đô thị: Hà Nội trong mắt tôi, Một người Hà Nội (Nguyễn
Khải), Phố nhà binh (Chu Lai), Hà Nội những ngày trước Tết (Thái Bá Tân),…
Những tập truyện ngắn về Hà Nội vẫn được xuất bản đều đặn và trong đó không chỉ
là hình ảnh phố xá, cảnh quan đô thị mà còn là cuộc sống và con người với những
biến thiên của thời cuộc.
Hiện
thực đời sống thị dân trong xã hội đương đại
Trong
cảm quan của nhiều người, đô thị có một hấp lực lớn bởi đó là chốn phồn hoa có
mật độ dân cư đông đúc, tốc độ phát triển kinh tế nhanh, điều kiện sống cao hơn
trong tương quan với các khu vực khác, và đô thị còn là nơi có nhiều cơ hội
thăng tiến. Trong nhiều truyện ngắn đương đại không gian đô thị được khúc xạ
qua những hình thái khác nhau, từ không gian địa lý đến không gian tâm tưởng,
từ không gian xã hội đến không gian cụ thể (không gian căn phòng, khu chung cư,
căn gác trọ). Song hành với không gian xã hội giữa thành thị đông đúc, náo
nhiệt, ở đó “trên con phố một chiều xe lúc nào cũng băng băng dòng người như
sông mùa lũ” (Quán rượu - Đỗ Phấn), không gian văn phòng, cao ốc (Tháng chạp –
Lý Lan), là không gian sống của cá nhân với những căn hộ, khu nhà cao tầng ở
“lưng chừng trời” tách biệt với thế giới xung quanh (Vu vơ ở lưng chừng trời –
Đỗ Phấn).
Trong
nhiều truyện ngắn, người đọc có thể bắt gặp những trang viết về vẻ đẹp của đô
thị, về không gian và cảnh quan đô thị: “Hà Nội cuối đông. Đêm xuống mù sương.
Tất cả như lấp ló sau một tấm voan mỏng che khuôn mặt xinh đẹp đã hóa trang kỹ
của cô dâu chuẩn bị về nhà chồng” (Rượu cúc – Nguyễn Thị Thu Huệ). Hoặc như:
“Tháng năm. Những chùm phượng đỏ vít cong cành trên các ngõ phố. Không gian inh
inh tiếng ve gợi cảm giác hồi hộp và sôi động. Nàng đứng dưới góc phố chờ
chàng” (Tình yêu ơi, ở đâu? - Nguyễn Thị Thu Huệ). Nhưng dường như đằng sau
những hình ảnh, cảnh quan đó là một cuộc sống đang từng ngày biến đổi. Nhiều
nhà văn đã hướng ngòi bút vào việc chuyển tải những trạng thái biến đổi của đời
sống thường nhật nơi đô thị. Từ những góc độ khác nhau, trong mỗi truyện ngắn,
người viết đã bộc lộ những cách tiếp cận đời sống đô thị, qua đó có thể thấy
được quá trình thay đổi đô thị không chỉ ở phương diện cảnh quan mà còn ở đời
sống vật chất và tinh thần của con người. Với Phong Điệp, nhân vật của chị
thường là những người trẻ, tạm cư trong những căn phòng chật hẹp, với nhiều băn
khoăn khi gia nhập đời sống đô thị. Họ ý thức được giá trị và những mặt trái
của đời sống họ đang tham dự, một cuộc sống mà ở đó công việc luôn chiếm phần
lớn quỹ thời gian của họ: “Thường thường tám giờ tối mới rũ rượi về nhà. Ăn qua
quýt một cái gì đó rồi đổ vật ra giường, ngủ một mạch đến bảy giờ sáng hôm sau.
Những ham muốn, đam mê dần bị tước bỏ. Quay quắt mấy chốc đã cảm thấy mình hết
đời rồi. Chồng con bây giờ không còn là một cái gì quá cấp thiết” (Ngôi nhà
ngập tràn ánh nắng). Đó thường là cuộc sống của những người nhập cư từ các tỉnh
lẻ về đô thị với nỗi lo mưu sinh, nhà cửa (Trở về). Nhiều truyện ngắn trong tập
truyện Giày đỏ của Dương Bình Nguyên, Mười sáu mét vuông của Vũ Đình Giang tái
hiện những góc nhìn của người trẻ về đời sống đô thị. Tập truyện ngắn Vết thương
thành thị của Đỗ Tiến Thụy có đề cập đến sự mở rộng đô thị và những “vết
thương” ở các làng quê bị đô thị hoá, những thân phận từ tỉnh lẻ tìm cách thích
nghi với cuộc sống đô thị, những nhân vật gốc gác nông thôn phải bôn ba kiếm
sống ở thành phố lớn. Trong nhiều truyện ngắn của mình, Nguyễn Việt Hà đã dành
sự quan tâm tới đời sống và con người Hà Nội, trong đó có những con người thị
dân, trí thức sinh tồn. Sáng tác của Đỗ Phấn luôn có sự hiện diện của cuộc sống
đô thị, đặt ra nhiều vấn đề của đời sống thị dân hôm nay. Ở truyện ngắn Quán
rượu, người viết cho thấy một góc nhìn về nhịp sống đô thị - một nhịp sống hối
hả kéo con người vào guồng quay gấp gáp: “Phố đã lên đèn. Ánh sáng yếu ớt hắt
trên những gương mặt người thiểu não sau một ngày vật lộn mưu sinh. Những gương
mặt giống nhau đến kỳ lạ. Chỉ hở ra một khuôn hình vô cảm trong những chiếc mũ
bảo hiểm”.
Hình
ảnh đô thị trong truyện ngắn đương đại không chỉ là hình ảnh hào nhoáng, sang
trọng, lịch lãm mà còn là những góc khuất, những sự xáo trộn trong đời sống và
tâm hồn con người. Không ít truyện ngắn mang đến thông điệp về sự biến đổi của
đô thị và những mặt trái của nó. Một nhân vật trong Huyền thoại phố phường của
Nguyễn Huy Thiệp được mô tả: “Hạnh sống cô đơn. Cuộc sống thành phố với bao lạc
thú gây nên nhiều mơ ước. Nhưng Hạnh biết rất rõ những lạc thú ấy chứa đầy cạm
bẫy”. Một hiện thực đáng quan ngại trong đời sống là việc người nông dân bất
đắc dĩ phải trở thành thị dân bởi quá trình đô thị hóa cũng đã được các cây bút
đưa lên trang viết (Cô gái tính nhảy cầu Rạch Miễu - Nguyễn Quốc Trung); rồi sự
xâm lấn, mở rộng đô thị làm biến đổi môi trường, cảnh quan (Cả một dây neo theo
nhau đi – Hồ Anh Thái, Hoa nở trên trời – Nguyễn Thị Thu Huệ). Những trạng thái
nhân tình thế thái của con người trong các đô thị hiện đại cũng được nhiều cây
bút truyện ngắn đề cập, chẳng hạn Lê Minh Khuê với truyện ngắn Đồng tiền có màu
xanh huyền ảo, hay Nguyễn Thị Thu Huệ với những câu chuyện đời thường của con
người ở đô thị, với thực trạng bi hài của đời sống gia đình trong thời kinh tế
thị trường (Mi Nu xinh đẹp), sự nghiệt ngã của quy luật cạnh tranh, sự bàng
quan với cuộc sống gia đình khi đã quá dư thừa về vật chất, sự xung đột giữa
nhu cầu cá nhân với hoàn cảnh (Nước mắt đàn ông).
Tuy
nhiên, không phải bao giờ sự ồn ã và cạnh tranh khốc liệt nơi đô thị cũng làm
xơ cứng và tha hóa tâm hồn con người. Người đọc vẫn có thể bắt gặp trong truyện
ngắn những trạng huống, cảnh ngộ mang nét đẹp văn hóa của con người đô thị, như
bà cô trong truyện Nếp nhà, bà Hiền trong truyện Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)
– những con người toát lên vẻ đẹp đáng trân trọng với ý thức gìn giữ gia phong,
nền nếp trong bối cảnh đời sống xã hội đang biến chuyển bởi quá trình đô thị
hóa cùng sự cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường.
Con
người cô đơn, con người cá nhân – một dạng thức và tâm thái của con người đô
thị
Nếu
như trước đây truyện ngắn thường tập trung vào những vấn đề chung của cộng
đồng, dân tộc, những vấn đề của văn hóa làng xã thì ngày nay nhiều cây bút
truyện ngắn đã đi vào khai thác những vấn đề của con người cá nhân – kiểu dạng
con người gắn liền với xã hội đô thị (khác hẳn với kiểu con người cộng đồng của
cư dân nông nghiệp trước đó). Nhiều kiểu dạng nhân vật mới như công chức, doanh
nhân, giám đốc, nhân viên văn phòng - những con người là sản phẩm của văn minh
đô thị - xuất hiện nhiều trong truyện ngắn. Cùng với nó là việc hướng sự quan
tâm đến những vấn đề của con người cá nhân, không chỉ ở sự tái hiện những trạng
thái đời sống, trạng thái nhân thế mà còn là sự nhận thức và lý giải hiện thực;
là nhu cầu phân tích, chiêm nghiệm đời sống của người cầm bút trước hiện thực
mới.
Việc
thể hiện con người cô đơn trong truyện ngắn đương đại không chỉ cho thấy sự
thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn mà còn là sự thể hiện
một tâm thái của con người hôm nay, những con người đang sinh sống và làm việc
tại các thành phố hiện đại, bị chi phối bởi cuộc sống và hoàn cảnh. Có muôn
hình vạn trạng nỗi cô đơn của con người khi đối mặt với cuộc sống đô thị. Đó có
thể là nỗi cô đơn trong chính ngôi nhà của mình (Tướng về hưu - Nguyễn Huy
Thiệp), trong cuộc sống hàng ngày mà họ phải đối mặt (Tân cảng - Nguyễn Thị Thu
Huệ) và họ không có cách gì giải tỏa, không thể chia sẻ cùng ai: “Tôi cô đơn
quá rồi”, “Sao người mỗi ngày một đông như kiến mà tôi cô đơn thế này” (Mi Nu
xinh đẹp). Đó có thể là nỗi cô đơn của một thế hệ khi những giá trị tinh thần
của gia đình truyền thống đang bị mất dần đi trong xã hội hiện đại (Tướng về
hưu – Nguyễn Huy Thiệp, Của để dành – Nguyễn Thị Thu Huệ), cô đơn trước không
gian đô thị choáng ngợp: “Đường phố rộng và thừa thãi gió, tuênh toang, trống
trải lạ lùng” (Cát đợi), là trạng thái trống trải và đơn độc của con người
trong thành phố khi chỉ có công việc mà không có người thân bên cạnh (Thành phố
không mùa đông – Nguyễn Thị Thu Huệ). Nỗi cô đơn của những thực thể sống trong
những tòa cao ốc, cách biệt với con người và thế giới xung quanh: “Đến tận tầng
mười sáu. Ở trên tầng cao, sự cách biệt đã dần biến thành nỗi cô đơn gần như
tuyệt đối. Cách biệt với thành phố bên dưới. Cách biệt với phần còn lại của tòa
nhà bên trên. Và cách biệt với ngay cả hàng xóm láng giềng là căn hộ đối diện
chung nhau có một hành lang tối” (Vu vơ ở lưng chừng trời – Đỗ Phấn). Có thể
thấy đời sống đô thị với ý thức cá nhân, ý thức về bản thể là một phương diện
được các cây bút truyện ngắn hướng tới.
Những
năm gần đây, cùng với sự đổi mới tư duy, chủ nghĩa đề tài trong sáng tác và
nghiên cứu, phê bình văn học không còn được đặt ra cấp thiết như trước. Việc
lựa chọn không gian thành thị hay nông thôn chưa hẳn đã có ý nghĩa trong việc
tạo nên sự thành công của tác phẩm. Tuy nhiên một điều không thể phủ nhận, là
tác phẩm trực tiếp hay gián tiếp viết về đời sống đô thị vẫn xuất hiện ngày một
nhiều (dù rằng “đô thị” ở mỗi thời đoạn xã hội và văn học có những tính chất
khác nhau). Quan sát sự vận động của truyện ngắn đương đại, có thể thấy các nhà
văn đã có sự bén nhạy và linh hoạt trong cách tiếp cận, thể hiện và lý giải
nhiều vấn đề của đời sống trong đó có đời sống của con người đô thị. Sự mở rộng
cái nhìn của người viết về một phạm vi, phương diện mới của đời sống xã hội hôm
nay đã cho thấy những thay đổi trong tư duy nghệ thuật, ở đây là truyện ngắn –
một thể tự sự năng động luôn đi đầu trong chiếm lĩnh, khái quát hiện thực.
Tiến
trình đô thị hóa đã tác động đến đời sống văn học, không chỉ ở số lượng tác
phẩm viết về đô thị mà còn ở những vấn đề của đời sống, con người, xã hội đô
thị được chuyển tải trong sáng tác. Rõ ràng, văn học Việt Nam đang chuyển động
cùng sự chuyển động của đô thị, tuy nhiên, thực tế là vẫn chưa có nhiều tác
phẩm sáng giá ở đề tài này. Đây là điều đáng suy nghĩ, cũng là vấn đề đặt ra
với người viết hôm nay
LÊ HƯƠNG THỦY
- Nguồn: Văn nghệ Quân đội
- Nguồn: Văn nghệ Quân đội
No comments:
Post a Comment