Năm 1987 anh lên làm TBT, lúc đó báo
Tiền Phong mỗi tuần một số, giấy rất xấu, trụ sở chật chội nép mình bên hồ
Thuyền Quang hun hút gió thổi, còn nhà anh chỉ có 10 mét vuông ở tầng 4 khu
tập thể Quỳnh Mai.
Có lần tôi tình cờ thấy anh đưa cả cháu Dương Anh Xuân đến trụ sở báo vừa làm việc vừa cho cháu đọc sách … Đến cả ăn sáng anh cũng không có thời gian, phải mua vội nắm xôi với hai quả chuối chín đến phòng làm việc ăn. - Nguồn: Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo |
|
DƯƠNG KỲ ANH – NGƯỜI THƠ “ĐI QUA THỜI
GIAN”
Dương Xuân
Nam (Dương Kỳ Anh) có đến 21 năm làm TBT báo Tiền Phong, năm 1987 đến
2008. Cũng từng ấy thời gian tôi có duyên được gần anh, mỗi năm ra tòa soạn báo
2 lần, nghĩa là có 42 lần trong đời, chưa kể những lần họp hành ở các tỉnh miền
Trung. Đến nay tôi vẫn không hiểu nổi giữa bộn bề của một TBT, nhà thơ Dương Kỳ
Anh lại đều đều xuất bản nhiều truyện ngắn, tiểu
thuyết, phóng sự, nhiều tập thơ và các thể loại khác. Đọc các tác phẩm của anh
chưa nhiều, nhưng tôi thích nhất là thơ. Nghĩ về nhân cách và các tác phẩm văn
học của anh tôi thấy có một sự nhất quán, anh như thơ- Người Thơ.
Xin nói một
chút về duyên được gần Anh, cuối năm 1987 tôi có viết một bài báo “Phiên tòa
ngày mai” gửi báo Tiền Phong. Nội dung bài báo nói đến sự oan trái của giảng
viên đại học Tây nguyên Nguyễn Sỹ Lý (Nghệ An). Anh Lý bị tòa án sơ thẩm đến
giám đốc thẩm kết án 17 năm tù oan về tội giết người. Nguyễn sỹ Lý ôm hận trong
lòng “Kêu Trời”, nhưng “Trời không có mắt”. Trong tù, anh Lý đem nổi oan giải
bày cùng người bạn tù Cao Tiến Mùi quê Tân Kỳ, cùng tỉnh, như chỉ mong vơi bớt
nỗi oan khuất. Nào ngờ anh nông dân Mùi ra tù, không nghiệp vụ điều tra, chỉ
bằng trái tim, tình người và nhiều “sáng kiến mạo hiểm” tạo được chứng cứ
minh oan cho Lý khi anh đã thi hành án được 5 năm. Bài báo đăng vào số Tết 1988
đã gây được tiếng vang.
Tiếp đó tôi
viết phóng sự (PS) dài kỳ “Người vô danh” còn gọi “ Hai ngàn ngày oan trái”của
Nguyễn Sỹ Lý. Phóng sự này đã được xuất bản ra nước ngoài, một số báo tỉnh đăng
lại, đặc biệt nó đã làm rung động tái tim nhạy cảm nhà viết kịch Lưu Quang Vũ.
Anh chuyển thể PS thành kịch bản văn học: “Trái tim trong trắng”. Vở kịch nóng
bỏng tính thời sự của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ được các đoàn kịch nhiều tỉnh
trong nước công diễn, khán giả nồng nhiệt đón đợi. Nhưng đau thương thay, sau
khi được đoàn kịch Hải Phòng mời xem “Trái tim trong trắng” về trên đường 5 đã
xẩy ra một vụ tai nạn khó hiểu, nữ sỹ Xuân Quỳnh, con Lưu Quỳnh Thơ và Lưu
Quang Vũ, vợ chồng con cái đã tử nạn. Đã có hàng trăm bài báo, thơ cảnh tỉnh,
nghi ngờ cái chết đau thương của gia đình nhà viết kịch chuyên đi thẳng vào
những nóng bỏng của một xã hội thời kỳ bao cấp, trong đó có nhiều khuôn mặt các
ông quan tham hiện lên. Lần đó tôi theo lãnh đạo báo Tiền Phong đi đưa tiễn gia
đình Lưu Quang Vũ về nơi vĩnh hằng, dòng người đi, đi mãi trong nước mắt thương
tiếc…
Sau khi PS
dài kỳ “ Người vô danh” đăng tải tôi được TBT Dương Xuân Nam yêu mến dành cho
nhiều ưu ái. Liên tiếp sau đó nhiều PS, bài báo của tôi đã được sử dụng, lúc
bài viết về miền Trung, lúc cao nguyên Đắc Lắc, khi ở Na Rì, Thái Nguyên
nơi nóng bỏng các sự kiện. Được cấp thẻ Nhà báo, giấy dưới thiệu phóng viên,
tôi như chắp thêm cánh đi khắp đây đó viết hầu hết về các góc khuất của xã hội.
Tuy nhiên, như một bài hát, có câu “Chuyện đời còn lắm bon chen, sự đời còn lắm
nhỏ nhen” làm TBT Dương Xuân Nam cũng “Lực bất tòng tâm” không thể chuyển tôi
về làm ở báo TP được.
Tôi chỉ là
một CTV có 21 năm liên tục viết bài cho báo TP (không kể CTV cho một số báo
khác) cũng trùng với 21 năm anh Dương Xuân Nam làm TBT ở báo này. Đam mê làm
báo, bất chấp PV, hay CTV, nhưng cũng có lúc nghĩ lại tôi thấy tương lai mờ mịt
quá nên đã viết thành bài thơ “Bông lau” đăng trên báo TP năm 1989 : “Cong cong câu hỏi giữa Trời/ Số không hồng
đỏ, trắng đời nắng mưa/ Tháng ngày trong gió vi vu/ Reo vui đâu biết được thua
mai này/ Chợt chiều tơi tả sợi bay/ Trắng tinh oằn xuống, lau gầy hết bông/
giữa trời câu hỏi hư không”. Bài thơ nổi niềm, bây giờ vận đúng vào kiếp
mình.
Một chút
duyên kỳ ngộ trong “42 lần gặp gỡ” đầy ấn tượng với TBT Dương Xuân Nam để bây
giờ tôi lại trở về với Người Thơ. Không thể kể hết đã có mấy chục bài, trăm bài
viết về nhà thơ DKA ở các mục : Người đương thời, Người nổi tiếng, phỏng vấn,
báo hình, viết, mạng, phần lớn người ta đều nói đến lời hay ý đẹp về anh, nhưng
có một góc đời thường, từ cuộc sống đến thơ lại ít ai biết. Năm 1987 anh lên
làm TBT, lúc đó báo Tiền Phong mỗi tuần một số, giấy rất xấu, trụ sở chật chội
nép mình bên hồ Thuyền Quang hun hút gió thổi, còn nhà anh chỉ có 10 mét vuông
ở tầng 4 khu tập thể Quỳnh Mai . Có lần tôi tình cờ thấy anh đưa cả cháu
Dương Anh Xuân đến trụ sở báo vừa làm việc vừa cho cháu đọc sách … Đến cả ăn
sáng anh cũng không có thời gian, phải mua vội nắm xôi với hai quả chuối chín
đến phòng làm việc ăn.
Trăn trở để
tờ báo đúng với nghĩa “Tiền Phong” anh đã dốc sức dốc lòng, bằng nhiều đổi mới
bài vở, như “Tác phẩm tuổi xanh”, trang thơ, phóng sự đầy ắp tính thời sự của
cuộc sống, các cuộc thi văn học, phóng sự cùng với các phong trào hoạt động xã
hội, như học bổng cho các học sinh nghèo, giúp đỡ Mẹ Việt Nam Anh hùng…
Đặc biệt
ngay từ năm 1988 anh đã khởi xưởng cuộc thi hoa hậu báo Tiền Phong, đến bây giờ
là cuộc thi hoa hậu Việt Nam và đang vươn ra thi hoa hậu thế giới. Cuộc thi hoa
hậu lần đầu tiên này đã gặp không ít trở ngại, vì bị coi là “tư tưởng tư bản
chủ nghĩa”, nhưng hướng tới cái đẹp, hướng đến sự thánh thiện đã đem lại chiến
thắng.
Có nhiều bài
viết nói anh là “Cha đẻ của cái đẹp “ quả không sai. Trong bài thơ “Song hành”
của anh có câu “Những bạo chúa, cường
quyền rồi sẽ chết/Mọi tấn trò đời khép lại phía sau/ Chỉ có tình yêu song hành
cùng trái đất/ Triệu năm rồi và triệu năm sau”. Tình yêu đôi lứa nhà thơ
nào cũng nói đến, nhưng triết lý “Chỉ có tình yêu song hành cùng trái đất” thì
chỉ có DKA. Trái đất không có tình yêu là một hành tinh chết.
Tính ra đến
năm 1993 anh đã có 7 năm làm TBT với bao áp lực của công việc vậy mà anh đã có
nhiều tập thơ, truyện ngắn : Và anh đợi (tập thơ NXB Lao động), Mười hai nhành
cỏ, Đi qua thời gian (tập thơ NXB Hội nhà văn Việt Nam), Dang dở một chuyện
tình (tập truyện ngắn NXB Thanh niên)… về sau anh xuất bản các tiểu thuyết gây
tiếng vang như “ Xuyên Cẩm” “ Thổ địa” “ Cõi Ta Bà” …Tôi được anh đề tặng tập
thơ “Đi qua thời gian”.
Trong tập
thơ này anh luôn luôn trăn trở nhân tình thái thế, nhớ quê hương, thương về
những kiếp nghèo. Ngồi trên máy bay của chín tầng mây cao đi ra nước ngoài anh
không hân hoan, toan tính mà liu riu nhắm mắt để làm thơ “Mây những tầng mây, trời những tầng trời/ Trái đất thật bé nhỏ/ giờ
này ai đang vui, ai đang buồn/Ai đang khổ đau, ai đang hạnh phúc”. Tiếp
theo câu hỏi khác được đẩy lên một biên độ cao hơn đậm nhân văn đi vào lòng
người, nhưng không phải ai cũng trả lời được “Thời gian vô tận, không gian mênh mông/ Ở đâu bắt đầu, nơi đâu kết
thúc…”. Ngay cả lúc đại tiệc, tôi hình dung ra anh đang rỏ nước mắt nhớ đến
quê anh vùng đất Kỳ Anh (Hà Tĩnh)
“Những lần cốc tai sao bỗng nhớ quê nhà
Mái rạ nghèo trắng hạt mưa sa
Cả nhà quây quần bên nồi khoai lang
luộc
Củ khoai sém cháy nồi thơm đến mức
Rượu Mác ten bỗng nhạt đầu môi”.
Không thật
lòng, không đau đáu nhớ về quê hương làm sao thi sỹ có được những khổ thơ rót
thẳng vào lòng người, từ đó mang lại sự truyền thụ, thức tĩnh và trách nhiệm.
Làm một TBT anh đã là trên tầng cao của triệu người, mọi hưởng thụ của đời thường
không thiếu. Không ít kẻ ở vào địa vị này, chốc lát quên tất cả bạn bè đang
hoạn nạn, quên hình ảnh cha đi cày về đội sấm, đội mưa, quên mẹ thân cò sớm tối
mom sông nuôi mình khôn lớn, hay có nghĩ đến cũng chỉ gió thoảng, mây bay. DKA
không thế, anh nghiệm ra đâu là gốc để có hoa quả, mùa màng.
Trong bài
thơ “Đợi” chỉ 4 câu mà DKA đã để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ. Bắt đầu là
những sự thật trần trụi, nghe ra không có gì là thơ “Con đợi giao thừa để còn đốt pháo/Mẹ đợi tết đến, cỗ bàn thắp hương/Bà
đợi xuân sang, cho trời bớt giá”… Ba câu đầu qua từng cung bật của tuổi tác
được nâng cao dần rồi mở ra một khát vọng, khát vọng nằm sâu trong tâm thức, nó
trăn trở, một trăn trở lớn lao. Câu thơ thứ 4 là hồn cốt, là xương tủy, là cái
thần của cả bài thơ “Chỉ riêng mình bố đợi chờ…bốn phương”. Anh đợi chờ một mùa
xuân thanh bình, trăm dân ấm no hạnh phúc, không có quyền lực, bạo hành, không
còn bon chen giả dối. Tôi đã có một lần định tự vẫn khi nhìn vào hiện tại, soi
về tương lai, mọi bế tắc không biết chia sẽ cùng ai. Rồi tôi gặp được nhà thơ
DKA, biết được tuổi thơ của anh rất khổ sở “cồn đất nào nhiều rau má nhất thì
hỏi Dương Xuân Nam”. Anh tu chí đi lên từ rau má thay cơm, đi lên từ những buổi
chăn trâu cắt cỏ thuê, rồi vào lính, trở thành nhà báo, nhà thơ, nhà văn, TBT.
Trước đây
khi gặp những bế tắc tôi quan niệm con người sinh ra từ cát bụi rồi quay về cát
bụi, nên chẳng có lý do gì mà không sớm quay về với cát bụi để thoát khỏi bể
trần ai. Rồi có một đêm tôi nằm mơ thấy ông Tiên hiện lên nói : Chết không dễ,
sống lại càng khó hơn nhiều lần. Chết không dễ là bắt anh phải sống, sống để
làm những việc hữu ích ít ra cho anh em, cha mẹ, bạn bè, xóm làng. Tôi gần DKA,
đọc thơ, văn, nghe anh tâm sự, tất cả làm tôi bừng tỉnh. Lắm khi tôi như thấy
mình chỉ là con tôm bế nhỏ bơi trong lòng Đại dương trí tuệ của anh. Không biết
có phải thơ anh, tư tưởng, bản lĩnh của anh ít nhiều đã ngấm vào tôi, cứu sống
tôi? Và tôi lao vào đọc, viết, viết thật lòng trước những nhiễu nhương, quan
quyền. Tôi thấy mình có ích, học được một chút trách nhiệm của nhà thơ DKA. Tuy
nhiên suy cho cùng kiếp người chỉ là hư vô, hư vô trong vô cùng của trái đất,
thời gian, vậy mà bao triều đại đều bon chen, cường quyền..
Khi đã lên
đỉnh cao của danh vọng, con người không nhân tính lại chà đạp đồng loại, bất
chấp luân thường đạo lý, để rồi trước nghiệt ngã của thời gian tất cả chỉ còn
lại cát bụi và sự phán xét. “Trước lăng Khải Định” DKA nghiệm ra một điều muôn
thủa:
“Ở đây bùn đất lên ngôi
Mảnh sành mảnh chĩnh cũng ngồi với vua
Đâu hồn thơ của người xưa
Tài hoa một nét bây giờ còn đây”.
Từ hiện thực
anh quay về một triết lý, từ đó nhắc nhở con người đừng lắm bon chen, tham
vọng:
“Nghe trong hương khói vơi đầy
Thời gian hưng phế, tháng ngày phôi
pha
Đời người như ngọn gió qua
Bao triều vua cũng chỉ là hư không”.
Thi sỹ thức
tỉnh những phàm tục, những bon chen phù phiếm một điều thật đơn giản mà rất
khó. Ngồi trên máy bay, trong bữa tiệc, cầm ly rượu, tất cả anh đều nhớ tới quê
nhà, bè bạn, nhớ những mảnh đời qua thơ. Câu từ của anh thật mộc mạc mà đầy sức
lay động “củ khoai cháy sém nồi, áo tơi, mái rạ quê nghèo”…nghe như đang oằn
nặng một vùng quê sớm nắng, chiều mưa, không có âm thanh rì rào từ ruộng mía,
bãi dâu.
Trong tập
phê bình văn học Thi nhân Việt Nam thời tiền chiến (nhà xuất bản Sài Gòn) Hoài
Thanh- Hoài Chân bảo Nguyễn Bính là “hồn quê”, tôi thấy DKA cũng đậm chất trữ
tình của làng mạc, thôn xóm. Phần lớn những thi sỹ thực thụ, đa cảm ít ai mà
sung sướng được dù nhà cao cửa rộng, bởi thơ luôn trăn trở, trĩu buồn về những
phận đời. DKA là một người như thế. Anh không bao giờ cười vang, cười ha hả, có
chăng anh chỉ cười bằng mắt, hoặc miệng chúm chím. Chưa bao giờ tôi thấy anh
nóng giận, có lẽ sự nhân hậu của anh đã lấn át tất cả. Đã nhiều lần anh khuyên
bảo tôi trong cách sống, nhưng không nói trực tiếp mà chỉ đưa thơ văn ra đọc,
ngắn gọn nhưng thật súc tích và đầy truyền cảm.
21 năm làm
TBT nhà thơ ra về nghỉ ngơi để lại phía sau một tòa nhà cao tầng sừng sững của
trụ sở báo Tiền Phong, để lại đến hẹn lại lên những mùa hoa hậu, để lại một đội
ngũ PV hùng hậu do anh tuyển chọn … Mấy ai từng ấy thời gian ở cương vị TBT mà
tránh được bụi trần, tránh được những làn sóng bể, thi sỹ DKA là một người như
thế. Cả đời học cách nói thật, anh về không nghỉ ngơi, chăm bón những khóm hoa,
soi đời, nhìn lại, giành hết cho thời gian đọc, viết, chiêm nghiễm nhân tình
thái thế và thấy mình thanh thoát.
“Bụi trần không vướng bên thềm
Cỏ non giờ đã phủ lên lối mòn
Ngoái nhìn về phía cô đơn
Hạt mưa mất hút, nỗi buồn hư không”.
Xem ra anh
không thanh nhàn chút nào, vẫn suy tư, ước vọng cuộc đời bằng góp nhặt qua thơ
nói riêng. Trong bài “Đi qua thời gian” anh không trực tiếp nói về những cuộc
chiến tranh đầy máu và nước mắt, để lại bao thù hận giữa con người của hai
chiến tuyến.
“Quạnh vắng trong chiều, mẹ đứng trước
nghĩa trang
Những linh hồn bay trong gió lạnh
Cỏ đã héo
hoa đã tàn
Aó đã phai
lòng người đổi thay khó thấy”.
Rồi bằng
lòng nhân ái bao dung “Mẹ thắp một nén
nhang/trước hương hồn những người lính tình nguyện/Cho các anh than thản/ Đi
qua thù hận thế gian này”.
Đau thương
đã đi qua, ai gây nên cảnh tương tàn, tất cả không gì cứu rỗi, chỉ mong đừng
còn nữa chiến chinh. Với cuộc đời, mỗi nhà thơ đều có một cách thể hiện riêng
đi vào lòng bạn đọc, người ồn ào, trực diện vạch mặt, còn Dương Kỳ Anh kín đáo,
nhân hậu mà sâu lắng, lắm khi câu từ chỉ như hạt cát, nhưng hạt cát triệu năm
sóng gội rửa để còn lại sự tinh khôi lấp lóa trong biển cát vàng.
35 năm làm
báo, 21 làm TBT, hơn 40 năm văn, thơ anh đã có hàng chục tập thơ, truyện ngắn,
tiểu thuyết quá xứng đáng với nhà văn, nhà thơ đương đại Việt Nam. Đã là ông
nội của hai đứa cháu ngoan ngoãn có một ngôi nhà sàn sum suê cây trái ở ngoại
thành … nhưng nhà thơ không nghĩ ngơi chút nào, vẫn trăn trở, đau đáu:
“Bây giờ tôi biết lặng im
Như con sông chảy im lìm ngoài kia
Lặng im khi buổi chiều về
Phù sa lặng đọng, bốn bề tâm tư
Tôi nào đâu dám thờ ơ
Trước bao la những bến bờ con sông”.
Nhà anh đầy
hoa, hoa bốn mùa thơm ngát dịu dàng. Anh hóa thân vào thơ, văn như là một cái
nghiệp . Tôi gọi Dương Kỳ Anh Người Thơ, hoa đẹp thơm cho đời, thơ vươn
đến những miền thánh thiện.
HỒ HỒNG TUYẾN
ĐC: Nghĩa
Tiến, thị xã Thái Hòa, Nghệ An.
ĐT :
01686137569.
No comments:
Post a Comment