Thứ nhất, ta đổi mới vấn đề phân phối lưu thông dẫn đến lạm phát phi mã, đổ vỡ tín dụng và đặc biệt hỗn loạn là phong trào đục tường, phá rào để mở cửa hàng buôn bán vòng vo trốn lậu thuế (nhà nhà đục tường chiếm lấy mặt tiền, các cơ quan công sở, trường học cũng phá tường rào xây ki-ốt cho thuê khiến bộ mặt đô thị trở nên nhếch nhác, vô chính phủ).
Thứ hai, ở
lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các ngành cơ khí, khai thác mỏ ta càng đổi
mới càng bung bét, dẫn tới kiệt quệ bằng công thức “BAD” nghĩa là các công ty,
xí nghiệp đua nhau bán ăn dần vật tư, thiết bị, nguyên nhiên liệu còn sót lại
của thời bao cấp để mà tồn tại qua ngày. Trong 5 năm ấy, xã hội xuất hiện một
phong trào “Chi chô mếch” khiến công nhân viên chức đua nhau bỏ việc cơ quan đi
làm nghề chỉ chỏ mối hàng cho đám “con phe”mua bán vòng vo kiếm hoa hồng…
Nhắc lại
những sự thật không thể quên thời kỳ đó để ta càng thấm thía một điều đau lòng:
Nông dân là người có công đầu đổi mới, nhưng ít được thụ hưởng kết quả đổi mới,
thậm chí phải gánh chịu nhiều sự thua thiệt. Có thể nói, từ năm 1992, nhất là
từ sau Đại hội Đảng VIII (1996), sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đạt nhiều thành công có phần đóng góp đáng kể của chính sách mở cửa và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhưng không thể phủ nhận nguồn vốn tích lũy ban
đầu cho sự nghiệp ấy (cả về tiền ngoại tệ
mạnh và uy tín quốc tế) lại nhờ vào thắng lợi của 5 năm đầu đổi mới trong
nông nghiệp mang lại. Lẽ ra trên đà thắng lợi của nông nghiệp, ngay từ năm
1992, chúng ta phải nghĩ ngay đến vấn đề tam nông, hoàn thiện hàng loạt chính
sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Nhìn lại vai trò nông dân trong lịch sử
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê đều đã từng nói, khâu yếu nhất của chính quyền cai trị ở mọi thời đại, mọi thể chế chính trị đều là nông thôn. Điều này càng đúng với lịch sử Việt Nam ta suốt 2000 năm qua. Thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, mọi biến động chính trị dẫn đến khởi nghĩa nông dân giành độc lập đều xảy ra ở thời điểm và địa bàn nông thôn mà thế lực cai trị phương Bắc áp dụng những chính sách sai lầm hà khắc nhất, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) được châm ngòi nổ bởi sự đối xử dã man của lũ quan áp tải đồ cống nạp về nước đối với những người vận chuyển hàng, trong đó có chàng trai nông dân lực điền họ Mai. Thời kỳ độc lập tự chủ dưới các triều đại phong kiến khoảng 900 năm thuộc thiên niên kỷ thứ hai, Việt Nam rất hiếm thấy sự biến động chính trị lớn khởi nguồn từ mâu thuẫn giữa các thế lực chính trị cung đình hay ở kinh đô, ngoại trừ 2 cuộc thoán ngôi của Hồ Quý Ly thời Trần và Mạc Đăng Dung thời Lê.
Giai đoạn
lịch sử hỗn tạp, chứa nhiều bất ổn định về an ninh chính trị nhất là khoảng gần
100 năm cuối thời vua Lê- chúa Trịnh thì cũng chỉ có vài cuộc bạo loạn nhỏ và
tức thì ở Đông Đô, do đám kiêu binh gốc quê xứ Thanh gây rối kiểu lưu manh
chính trị, còn chủ yếu và cực kỳ gay cấn, đe dọa triền miên sự tồn vong của
chính thể là 6 cuộc khởi nghĩa và hơn 20 vụ bạo động lớn nhỏ của nông dân,
trong đó có tới 9 vụ liên quan đến đất đai bị quan lại, cường hào cưỡng chiếm.
Nếu chỉ xét
trong giai đoạn lịch sử cận hiện đại ở Việt Nam, Trung Quốc và nhiều quốc gia
nông nghiệp khác, tôi lại nhớ nhà cách mạng Đặng Diễn Đạt (TQ) năm 1924 đã bị
phê phán, khai trừ ra khỏi quốc tế cộng sản vì bất đồng quan điểm, khi ông cho
rằng ở phương Đông không hề có khái niệm cách mạng vô sản mà chỉ có khái niệm
về cuộc đại cách mạng nhân dân, lấy nòng cốt là những nông dân nghèo không có
ruộng hoặc mất ruộng mà thôi. (Tuyển tập
Đặng Diễn Đạt- Nxb Bắc Kinh 1991).
Lịch sử đấu
tranh cách mạng của Đảng ta trong gần 80 năm qua cũng đã chứng minh các bậc
tiền bối cộng sản luôn khôn khéo nắm lấy phong trào nông dân, tuyên truyền tổ
chức họ thành đội quân chủ lực của cách mạng nên đã đạt được những thành công
rực rỡ, xứng đáng được cả dân tộc thời đó ghi nhận là chính đảng duy nhất nắm
quyền lãnh đạo đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong hai
cuộc kháng chiến của dân tộc vào nửa cuối thế kỷ XX, tư tưởng chiến lược lấy
nông thôn bao vây thành thị là một sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh cách mạng do Đảng cộng sản phát động và lãnh đạo. Thế nhưng thực tế
chiến tranh ở Việt Nam là lấy yếu đánh mạnh nên chiến tranh kéo dài, sự hy sinh
của nông dân là vô cùng to lớn, bất cứ người lãnh đạo nào khi điều hành đất nước
mà quên đi sự hy sinh ấy là có tội với lịch sử.
Theo tìm
hiểu của tôi, 30 năm sau cuộc chống Mỹ, hiện chúng ta có 1,1 triệu liệt sĩ,
trong đó 500 ngàn có mộ chí quy tập rõ danh tính, 300 ngàn được quy tập nhưng
khuyết danh và 300 ngàn chưa tìm thấy hài cốt để quy tập. Đây là một thực tế
đau lòng làm âm ỉ nỗi đau, chua xót trong các gia đình nông dân bấy lâu lang
thang khắp nơi tìm mộ người thân. Việc chăm sóc phần mộ người đã khuất là tập
quán lâu đời và thiêng liêng của dân tộc ta. Vậy mà khi tham gia cộng tác với
nhóm trí thức trẻ chủ trương lập trang Web “Nhắn tìm đồng đội”, tôi đã từng
chứng kiến nhiều gia đình nông dân tuy người thân có mộ đã quy tập về nghĩa
trang liệt sĩ nào đó, ghi rõ danh tính, quê quán mà bản thân gia đình không hề
biết, vẫn lang thang tìm kiếm?!
Từ thực tế
lịch sử về vai trò người nông dân trong xã hội Việt Nam như vừa điểm trích theo
thư tịch cổ và các tộc phả vùng đồng bằng Bắc Bộ, kết hợp tham khảo một số công
trình nghiên cứu về văn hóa, xã hội học, lịch sử của Nguyễn Đổng Chi, Đoàn Văn
Chúc, Tô Duy Hợp, Trần Ngọc Vương, Nguyễn Quang Ngoc…, tôi thiết nghĩ, ta có
thể tóm lược thân phận người nông dân Việt Nam trong tiến trình lịch sử ở 3 cấp
độ dân quyền: Thời phong kiến tập quyền (Lý-
Trần- Lê- Nguyễn), họ cam chịu thân phận con người Thần dân, chỉ biết ngoan
ngoãn chấp nhận quyền lực của vua chúa, còn bản thân không hề được vua ban phát
một thứ quyền gì. Thời nô lệ mất nước, họ tình nguyện tự chuyển hóa thành thân
phận con người Quốc dân, dám chấp nhận mọi sự hy sinh để giành độc lập cho đất
nước, bản thân không hề đòi hỏi một thứ gì về quyền và lợi.
Sau Cách
mạng mùa thu năm Ất Dậu, lẽ ra người nông dân đã có thể được hưởng thân phận
con người Công dân một cách đầy đủ như mọi dân tộc ở các nước văn minh
trên thế giới, nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh hết chống Pháp rồi chống Mỹ nên
người nông dân một lần nữa vẫn sẵn lòng hy sinh, chấp nhận thêm 30 năm trong
thân phận con người Quốc dân. Đáng tiếc, đã 30 năm kể từ ngày thống nhất đất nước,
trong tư tưởng một số người vì nhiều lý do kém thuyết phục cứ muốn níu kéo
người nông dân ở mãi thân phận con người Quốc dân, chỉ biết yêu cầu họ hy
sinh và đóng góp cho công cuộc phát triển mà đôi khi phớt lờ những đòi hỏi
chính đáng về quyền tư hữu, một thứ quyền rất cơ bản của con người Công dân
trong xã hội hiện đại. Và đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến
sai lầm trong chính sách tam nông suốt một thời gian dài.
Sơ
lược về hiện trạng nông nghiệp- nông thôn và nông dân 20 năm gần đây
Trước hết nói về nông nghiệp, từ năm 1992, sau thắng lợi của 5 năm đầu đổi mới, nông nghiệp Việt Nam hầu như không có sự phát triển mang tính bứt phá nào đáng kể, thậm chí ở nhiều nơi, nhiều lúc đã có sự sa sút. Đó là thực tế không thể không lo ngại ở một nước vẫn đang còn chiếm 70% dân số làm nông nghiệp. Cần phải nói rõ hơn về cái gọi là thắng lợi trong nông nghiệp giai đoạn 5 năm đầu đổi mới tuy rất to lớn, nhưng thực chất chỉ nhờ vào thay đổi cơ chế quản lý, giải phóng sức lao động ở nông thôn chứ chưa hề có sự tham gia đầu tư bài bản của Nhà nước và cũng rất ít hàm lượng khoa học kỹ thuật đóng góp vào quá trình sản xuất. Vì không nhìn thấy rõ bản chất của vấn đề như vậy nên ta đã sớm ngủ quên trong thắng lợi, lơ là quản lý, thiếu đầu tư cho thủy lợi và nghiên cứu khoa học để cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ chế biến.
Năm 2005,
tôi cùng nhà văn Minh Chuyên về Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long làm phim tài
liệu, rất xúc động trước tài năng và nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ khoa học
nơi đây. Họ đã làm hết sức mình cho nền nông nghiệp nước nhà, song lẽ ra họ còn
làm được nhiều hơn thế nếu Nhà nước quan tâm đầu tư thỏa đáng. Làm sao ta có
thể yên lòng khi miền Tây Nam Bộ so với Thái Lan có cùng điều kiện thổ nhưỡng,
khí hậu nhưng họ chỉ trồng 1- 2 vụ/năm, còn ta trồng 3 thậm chí 4 vụ trong năm;
giá thành 1 tấn thóc của ta cao hơn họ song chất lượng gạo họ cao hơn, giá trị
xuất khẩu 1 tấn gạo của họ cũng cao hơn ta rất nhiều! (giá gạo Thái Lan trước năm 2006 có loại đạt tới 750 USD/tấn so với 260-
280 USD/tấn của Việt Nam) Làm sao ta
có thể chấp nhận một thực tế là đội ngũ khoa học về cơ khí nông nghiệp rất đông
đảo, nhiều người có học hàm học vị cao lại thua một anh Hai Lúa trong thiết kế
máy gặt, máy hút bùn… cho nông dân! Lỗi này ở nhà khoa học 1 phần thì ở Nhà
nước 10 phần nặng hơn…
Nông nghiệp
bấp bênh thể hiện rõ nhất ở khả năng chống chịu với thiên tai, dịch bệnh còn
yếu kém. Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp phát triển bền vững chưa bảo đảm, từ hệ
thống đê sông, đê biển, hệ thống thủy lợi từ công trình đầu mối đến kênh mương,
hệ thống giống, bảo vệ động thực vật, thu hoạch bảo quản, cơ sở chế biến. Thiệt
hại vật chất do thiên tai, dịch bệnh hằng năm rất lớn, lên đến trên dưới 1%
GDP, tác động chủ yếu đối với nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản, trong khi
nhóm ngành này hiện chỉ còn chiếm 20% GDP. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nhóm
ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản mấy năm nay có xu hướng giảm dần (năm 2000
tăng 7,3%, năm 2005 tăng 4,9%, năm 2007 tăng 4,6%), trong đó nông nghiệp còn
giảm mạnh hơn (tương ứng là 5,4%, 3,2% và 2,9%); còn tốc độ tăng giá trị sản
xuất chăn nuôi giảm mạnh liên tục trong ba năm nay (năm 2005 tăng 11,4%, năm
2006 tăng 7,3%, năm 2007 tăng 4,6%) và liên tục bị dịch cúm gia cầm, dịch lở
mồm long móng, dịch lợn tai xanh đe dọa. Sản lượng lương thực bình quân đầu
người đang giảm dần. Diện tích đất trồng lúa đang giảm mạnh trong khi dân số cả
nước vẫn còn tăng lớn.
Theo kết quả
điều tra tại 16 tỉnh, thành phố về tình trạng đất nông nghiệp bị thu hồi để xây
dựng khu công nghiệp, khu đô thị (KCN, KĐT) vừa được Bộ NN&PTNT công bố,
trong vòng 5 năm qua, cả nước đã có hơn 366.000 ha đất nông nghiệp bị thu
hồi. Trong khi dân số và nhu cầu lương thực đang ngày một gia tăng, đất nông
nghiệp lại đang bị nhiều địa phương thu hồi một cách vô tội vạ. Tình trạng này
đã diễn ra trong một thời gian dài đã khiến cho người nông dân nhiều địa phương
trong cả nước rơi vào tình trạng không có đất canh tác. Phần lớn số tiền đền bù
đất mà người nông dân nhận được, chủ yếu được dùng vào việc mua sắm, xây dựng
nhà ở; rất ít người dùng tiền đền bù để đầu tư chuyển sang ngành nghề khác.
Điều này đã
dẫn đến tình trạng, số lao động dôi dư (nhất là lứa tuổi từ 35-60) tại các địa
phương trong cả nước chiếm số lượng rất lớn. Tài liệu nghiên cứu ở Vụ Lao động
- việc làm (Bộ LĐ-TB&XH) năm 2007 cho biết, trung bình mỗi hộ nơi bị thu
hồi đất có 1,5 lao động mất việc làm; trong đó, đứng đầu là Hà Tây (35.703
người), Vĩnh Phúc (22.800 người), Đồng Nai (12.295 người)...
Theo giải
thích của những người có trách nhiệm ở địa phương thì sở dĩ xảy ra tình trạng
này là vì số nông dân tại các nơi đó được tuyển dụng vào làm việc tại các KCN
chiếm tỷ lệ rất ít do trình độ lao động, tay nghề không đáp ứng được nhu cầu.
Tuy nhiên gần đây, khi về Phù Chẩn- Bắc Ninh viết bài về những tiêu cực trong
thu hồi đất, tôi đã có cơ hội tìm hiểu rõ hơn thực trạng này ở một tỉnh sát kề
thủ đô Hà Nội. Từ năm 2001 đến nay, tỉnh Bắc Ninh đã thu hồi hơn 3.000ha đất
nông nghiệp.
Theo kế
hoạch, đến năm 2010, Bắc Ninh sẽ có tổng số 8 KCN tập trung và việc thu hồi đất
chắc chắn sẽ không dừng ở con số trên. Cũng theo dự kiến, đến năm 2015, Bắc
Ninh sẽ có 14-15 KCN tập trung và phải thu hồi diện tích gần 8.700ha. Số đất
này đã chiếm tới hơn 10% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Thế nhưng chỉ tiếp
cận một dự án liên quan đến điểm nóng Phù Chẩn đã thấy ở Bắc Ninh tồn tại nhiều
vấn đề sai lầm nghiêm trọng về chính sách tam nông. (Xem bài trên Văn Nghệ Trẻ số 14 và 17+ 18, bộ số năm 2008). Chúng
ta không thể công nghiệp hóa bằng mọi giá, thu hồi đất vô tội vạ, bất chấp mọi
phản ứng của nông dân như ở Phù Chẩn bởi vì rõ ràng chính quyền cơ sở ở đây đã
coi trọng lợi ích nhà đầu tư hơn cả sự sống còn của hơn 8000 nông dân! Mở rộng
việc khảo sát ra vài tỉnh khác tôi cũng thấy tình trạng tương tự. Tỉnh Hưng Yên
có 53.000 ha đất nông nghiệp. So với năm 2003, giảm khoảng 5.000 ha. Đất nông
nghiệp giảm mạnh là do bị thu hồi để làm các KCN, đường giao thông, nhưng nông
dân bị thu hồi đất không được đền bù thỏa đáng dẫn đến khiếu kiện vượt cấp
triền miên, đặc biệt phức tạp là việc thu hồi đất ở các xã huyện Văn Giang
phục vụ cho dự án Ecopark của một doanh nghiệp tư nhân, đang biến nơi đây có
nguy cơ thành thùng thuốc nổ hơn cả Phù Chẩn- Bắc Ninh! ... Thanh Hóa, dù
quá trình đô thị hóa công nghiệp hóa tại đây chưa thực sự mạnh mẽ, nhưng hiện
tượng thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang mục đích sử dụng khác là vấn đề rất
đáng quan tâm.
Ở các vùng
ven đô TP Thanh Hóa, các thị xã như Bỉm Sơn, Sầm Sơn, có rất nhiều hộ dân bị
thu hồi hết đất nông nghiệp. Ngay tại làng Tạnh, phường Đông Vệ, TP Thanh Hoá,
Nhà nước cũng thu hồi mất 1/2 diện tích đất nông nghiệp. Khi thu hồi, Nhà nước
và doanh nghiệp có hỗ trợ cho các hộ dân mấy chục triệu đồng/ sào Trung Bộ để
tìm việc làm, nhưng gần như chẳng có ai tìm được việc làm bằng số tiền hỗ trợ
đó. Cũng vì thế, các tệ nạn xã hội phát triển mạnh hơn, ảnh hưởng không nhỏ đến
an ninh trật tự địa phương.
Đảng bộ và
chính quyền tỉnh Thanh đã phê duyệt quy hoạch chi tiết 8 khu công nghiệp phục
vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa xứ Thanh bao gồm: Lễ Môn, Lam Sơn,
Hà Trung, Bỉm Sơn, Vân Du- Thạch Thành, Như Thanh, Hậu Lộc và đặc biệt là khu
kinh tế trọng điểm Nghi Sơn. Riêng khu công nghiệp hóa dầu Nghi Sơn đã chiếm
hết 1,8 ngàn ha ruộng đất của 12 xã thuần nông, song khi tôi cộng tác với VTV
làm phim tài liệu về dự án này chỉ thấy lãnh đạo tỉnh hồ hởi phát biểu về tầm
quan trọng của dự án được đầu tư nhiều tỷ USD mà không thấy nói gì về an ninh
lương thực và ổn định đời sống cho nông dân 12 xã này sau khi bị thu hồi hết
đất nông nghiệp.
Khoảng 3-4
năm lại đây, trong việc thu hồi đất giao cho chủ đầu tư nước ngoài, đáng quan
ngại nhất là nhiều vị lãnh đạo địa phương bị mê hoặc bởi mối lợi trước mắt đã
dấy lên phong trào ký duyệt vô tội vạ dự án làm sân golf nằm gần thành phố, thị
xã làm mất đi diện tích lớn trồng lúa nước tốt nhất. Ai cũng biết sân golf có
đặc điểm chiếm đất nhiều, thu hút lao động rất ít và là lao động không có tay
nghề. Đối tượng phục vụ của sân golf là những ông chủ nước ngoài đang sinh sống
ở Việt Nam và những cư dân đô thị giàu có. Nhìn ra các nước ta thấy họ đầu tư sân
golf ở những nơi đất trống đồi trọc, vừa để cải tạo môi trường, vừa thu lợi từ
lớp người giàu. Còn ở ta, số ông chủ nước ngoài không nhiều, khách đến sân golf
là lớp người mới giàu phất lên, học làm “dân quý tộc” nên mới chỉ tập chơi golf
là nhiều. Họ muốn có chỗ chơi ở gần đô thị lớn nên chỉ một tỉnh Long An đã có
đến 34 dự án sân golf, đa phần là ruộng tốt trồng lúa. Mới đây dư luận lại xôn
xao phản ứng ông Phó chủ tịch Long An vừa ký thêm một dự án cho người Hàn Quốc
xây dựng nghĩa trang sinh thái Vĩnh Hằng trên diện tích 25 ha đất trồng lúa cao
sản nổi tiếng một thời.
Một hiện tượng mất ruộng canh tác tốt ở các
tỉnh, huyện miền núi ít được các nhà quản lý quan tâm và dư luận báo chí đề
cập, nhưng với cách nhìn của tôi cũng rất đáng lo ngại. Đó là tình trạng xây
dựng các công trình thủy điện vừa và nhỏ tràn lan như hiện nay. Mỗi công trình
hồ chứa thủy điện dù nhỏ cũng đều lấy đi hàng chục đến hàng trăm ha ruộng trồng
lúa nước ở thung lũng giữa núi và trước núi. Ở các nơi đó, diện tích trồng lúa
vốn đã rất khan hiếm, nếu mất đi ngần ấy diện tích là tỷ lệ không nhỏ, ảnh
hưởng trực tiếp đến an ninh lương
thực của đồng bào các dân tộc trong vùng. Mặt khác, nếu không có sự nghiên cứu,
tính toán kỹ lưỡng thì việc có quá nhiều công trình thủy điện vừa và nhỏ sẽ tác động tiêu cực trở lại
đối với động thái dòng chảy của các lưu vực sông lớn, đe dọa cả các hồ chứa
nước ở các công trình thủy điện lớn quốc gia…
Tôi luôn cảm
thấy ray rứt trước lời của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi còn sống có lần ông
phải thốt lên: “Nông dân của ta đang bị gạt ra rìa khỏi sự phát triển đất
nước!” Nói như vậy vẫn còn nhẹ bởi thực tế nhiều địa phương qua tham vọng phát
triển công nghiệp và đô thị hóa đã vô tình đẩy nông dân vào chỗ bị bần cùng
hóa. Thử hỏi nếu một địa phương chưa hội đủ các yếu tố về nhân lực, vật lực và
các yếu tố cần thiết để có thể phát triển công nghiệp, chưa có bài toán cho lối
ra của nông dân khi bị thu hồi đất thì liệu có phát triển công nghiệp được
không? Và qui hoạch để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị làm gì khi mà
vẫn chưa có thể giải quyết được hậu quả từ việc thu đất của nông dân? Với nông
dân, có đất coi như là đã sống vì ít nhất họ cũng đủ cơm ăn từ những thửa ruộng
của mình. Giờ đây, khi đất canh tác của nông dân bị qui hoạch để làm công
nghiệp, trong khi chính quyền địa phương lúng túng và không có hướng đi rõ ràng
nào cho người nông dân mất ruộng, những người này ngoài việc chỉ biết cày cấy
ra không biết làm gì cả! Không nghề nghiệp, không trình độ!
Trong một
cuộc hội thảo gần đây ở Tp Hồ Chí Minh, GS Tương Lai dẫn kết quả điều tra vào
năm 2006 cho biết, trong 8 xã được khảo sát ở đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ
và ĐBSCL thì lao động dưới 40 tuổi không còn, hầu hết lao động đều bỏ lên các
đô thị để kiếm việc làm. Riêng tại Thái Bình, 45% lao động đã chuyển khỏi nông
nghiệp, 200.000 người phải đi làm ăn xa. Lao động trẻ bỏ đi cầu thực nơi xa,
chỉ có những người thất thế và phụ nữ phải ở lại. Đó là những lao động không
còn cách nào khác nên phải bám lấy nông nghiệp... Nông dân phải rời xa nông
nghiệp, nông thôn không chỉ vì nghèo đói mà còn do vấn nạn mất đất nông nghiệp.
VN hiện có
4,1 triệu ha trồng lúa, trong đó có 3,4 triệu ha được đầu tư thủy lợi hoàn
chỉnh, nhưng mỗi năm có hơn 70.000ha đất trồng lúa đã đầu tư thủy lợi bị mất đi
với lý do chuyển mục đích sử dụng. Với việc chuyển đổi mục đích sử dụng này,
chưa kể số tiền đã đầu tư thủy lợi bị mất xấp xỉ 7.000 tỉ đồng cho diện tích bị
thu hồi đó, hàng loạt nông dân vốn sống nhờ vào nông nghiệp cũng bị mất việc
làm. Chẳng hạn tại Bắc Ninh, sau khi ruộng đất bị thu hồi để làm khu công
nghiệp, chỉ có 5-6% nông dân dôi dư tìm được việc làm, 94% còn lại chẳng biết
xoay xở như thế nào.
Trong một
đợt kiểm tra mới đây ở Đồng Tháp, các cơ quan chức năng phát hiện có đến 70%
sản lượng phân bón bán ra của các đại lý là phân bón giả, được sản xuất bằng
cách lấy... đất sét rồi nhuộm màu. Thế nhưng, các địa chỉ bị phát hiện bán phân
giả chỉ bị phạt 2 triệu đồng, vô cùng nhỏ so với thiệt hại của nông dân! Vấn đề
cá ba sa, cá tra hiện nay như một điển hình về sự bất cập trong qui hoạch, làm
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ngay cả những nông dân bậc trung
hoặc giàu chỉ vì năng động, táo bạo trong sản xuất cũng phải gánh chịu nhiều
rủi ro bởi khi được mùa, xuất khẩu thuận lợi thì họ bị các doanh nghiệp và tư
thương làm cho rớt giá để tước đoạt lợi nhuận; còn khi mất mùa hoặc hợp đồng
xuất khẩu gặp trục trặc thì họ bị người ta bội tín, bỏ rơi cho đến lúc phá sản,
nhưng Nhà nước không hề có chế tài hay động thái gì bảo hộ cho nông dân. Thế
nên mới xảy ra hiện tượng nông dân ở Ban Mê Thuật phá café trồng hồ tiêu rồi
lại phá hồ tiêu trồng café, xoay như đèn cù mà dở khóc dở cười!…
Lại bàn tiếp
về thực trạng xã hội nông thôn hiện nay. Vấn nạn nhìn thấy rõ nhất là tình
trạng thất học, cờ bạc, lô đề, nghiện hút đang phát triển tràn lan ở các làng
quê từ miền xuôi lên cả miền ngược. Điều này xét cho cùng là hệ quả của nền
giáo dục ở nông thôn đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Những thành quả rực rỡ về
giáo dục trước năm 1975 của đất nước đang bị xói mòn bởi cơ chế kinh tế thị
trường và sai lầm trong cải cách giáo dục diễn ra ở thành thị tác hại 1 phần
thì ở nông thôn nặng gấp10 lần.
Một vấn nạn
thứ hai cũng khá nghiêm trọng và rõ nét là môi trường ở nông thôn đang bị ô
nhiễm nặng nề. Tôi không thể hiểu được vì sao với các ông chủ đầu tư nước ngoài
thì ta quá dễ dàng cho họ chuyển đổi mục đích sử dụng một diện tích lớn đất
canh tác, nhưng với nông dân ở các làng xã ta lại quá chặt chẽ, hà khắc trong
việc xét duyệt nới rộng diện tích thổ cư từ đất thổ canh theo từng chu kỳ thời
gian hợp lý để giãn dân cho từng hộ có đủ quỹ đất thực hiện mô hình VAC truyền
thống.
Hơn 30 năm
sau chiến tranh, mỗi hộ gia đình cũ nay đã sinh thêm ít nhất 2 thế hệ, có nhu
cầu tách hộ, nhưng qũy đất có hạn nên sân, vườn bị thu hẹp, thậm chí mất hẳn,
phá vỡ cân bằng sinh thái. Tôi có dịp về làm phim tài liệu ở làng Thổ Hà- Bắc
Ninh cảm thấy sững sờ vì nông dân ở đây sống chen chúc đến nghẹt thở trong
không gian tù túng, chật hẹp không khác gì phố cổ giữa lòng Hà Nội. Đi khắp các
làng quê đồng bằng Bắc Bộ giờ đây tôi khó tìm thấy nhà có sân rộng, vườn cây đủ
lớn, ao hồ bị san lấp gần hết và đặc biệt là hình ảnh lũy tre Việt Nam cứ thưa
vắng dần. Rác thải và nước thải sinh hoạt không có chỗ tiêu thoát. Ở các làng
nghề còn thêm nguy cơ ô nhiễm nguồn nước sạch và khói bụi thải ra từ các lò
than…
Vấn nạn thứ
ba, chưa bao giờ trong lịch sử nước ta kể từ Cách mạng mùa thu năm Ất Dậu các tệ
nạn mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, lừa bịp tâm linh và các sinh hoạt phản
văn hóa khác lại lan tràn phổ biến, hoạt động công khai ở nông thôn như hiện
nay. Đi viết bài hoặc làm phim tài liệu ở nhiều nơi, tôi đã tận mắt chứng kiến vài
hiện tượng mất dân chủ trong bầu cử HĐND xã, bầu các chức vụ lãnh đạo cấp thôn,
cấp xã diễn ra trắng trợn bằng gian lận phiếu, thủ đoạn đe dọa hoặc mua chuộc
cả bằng tiền làm nhức nhối tâm thế cộng đồng làng xã.
Phải
chăng họ bỏ tiền ra mua phiếu, kiếm chức để rồi dùng quyền thả sức ép dân,
cưỡng chế thu hồi đất vô tội vạ, chia lợi cùng các ông chủ trong hoặc ngoài
nước, và đó mới chính là mầm loạn ở các làng quê vốn thanh bình sau 30 năm
chiến tranh khốc liệt?…
Hà Nội 15/6/2008
Nhà văn VŨ NGỌC TIẾN
Nguồn: Báo Văn Nghệ Trẻ số 26 (29/6/2008)
Trên đây là bản gốc
No comments:
Post a Comment