Bàn
về vấn đề Vi Thùy Linh - giữa những quyền lực của lời là một sự phê bình “kép”
(Juergen Habermas). Đối tượng của sự luận bàn này là sự hiện hữu của Vi Thùy
Linh trong những phát ngôn của chị, đồng thời tìm hiểu Vi Thùy Linh trong lời
của những chủ thể khác. Với đối tượng như thế, bài viết nhằm làm hiện lên các
chân dung: 1. Vi Thùy Linh - hiện thân từ ngôn ngữ; 2. ViLi trong lời thơ; 3.
“Những khuôn mặt trong đám đông” (Stephen Owen).
Diễn giải này hướng tới việc phác họa những chân dung trong sự bề bộn và phức tạp của sinh thái văn hóa - nơi tất cả đang hiện diện. Phương pháp của chúng tôi là thống kê những phát ngôn của đối tượng, phân tích, phân loại dựa trên kiểu lời của từng chủ thể phát ngôn: phê bình báo chí, phê bình học thuật, chân tướng của sự diễn giải, hiệu quả của lời cũng như giới hạn và tác hại của nó… Để thuận lợi cho việc tìm hiểu, phân loại là thao tác quan trọng, cốt lõi. Phát ngôn của Vi Thùy Linh bao gồm: những lời ở ngoài thơ và thơ. Lời ngoài thơ lại có thể chia ra dưới hai dạng: chân tướng và hình tướng. Chân tướng là cái có thể trở thành tiền giả định cho lời thơ, đâu chỉ là những chiêu PR làm cho hình tướng nổi lên - đó là sản phẩm của kỉ nguyên truyền thông. Lời thơ là phần biểu đạt quyền lực mĩ học ngôn từ của Vi Thùy Linh.
Phần
này chúng tôi sẽ đưa ra cách kiến giải của mình. Lời của cộng đồng - những phê bình về Vi Thùy Linh bao gồm: phê bình về lời ở
ngoài thơ của Vi Thùy Linh và phê bình về thơ Vi Thùy Linh. Dĩ nhiên, chúng tôi
không làm lại công việc của những người đi trước, dù biết công việc ấy vẫn còn
dang dở. Đối tượng của chúng tôi ở đây là phát ngôn phê bình Vi Thùy Linh không
phải là lời của nhà thơ này. Phê bình về lời ngoài thơ của Vi Thùy Linh chúng
tôi chú ý đến những diễn giải nào có tính chất thống nhất, xác định rõ đối
tượng (lời ở ngoài thơ), loại bỏ những diễn giải có tính chất minh họa cho thơ
Vi Thùy Linh. Phê bình những diễn giải về thơ Vi Thùy Linh cũng là phần quan
trọng của bài viết. Phần này chúng tôi chia thành hai dòng lớn: dòng mạch của
những ý kiến động viên, khẳng định, ngợi khen. Chúng tôi luôn kiểm soát mạch
này bằng hai giả thuyết: kẹo ngọt hay
là sự lừa mị. Lời khen ngợi có thể là
phần thưởng xứng đáng, là những “thương xác” (Trần Thái Đỉnh) không thể chối bỏ
về một giá trị, cũng có thể là viên kẹo “vô tình” đưa nhà thơ rơi vào vọng
tưởng. Dòng mạch thứ hai là những ý kiến phủ bác, những “búa rìu” của dư luận.
Chúng tôi vẫn nhất quán hai giả thuyết như dòng trên, nghĩa là, có những phủ
bác là “đòn roi” để Vi Thùy Linh trưởng thành hơn trên đường dài của sự nghiệp
thơ ca, cũng có thứ “đòn roi” thù hằn, nanh nọc, gây ra những vết thương trên
sinh lộ của thi sĩ.
Vi Thùy Linh - Con đẻ của truyền thông
Với những lời ở ngoài thơ của Vi
Thùy Linh, chúng tôi chú ý đến những phát ngôn của chị trong các bài phỏng vấn,
trong các buổi nói chuyện, các diễn giải kèm theo trong các tập thơ đã xuất bản
của thi sĩ. Nhận ra chân tướng, hình tướng trong những lời này không dễ. Thao
tác khả dĩ nhất là đối chiếu với lời thơ, xem phát ngôn ngoài thơ nào tương
thích với phát ngôn thơ, nghĩa là có mối liên hệ mang tính tiền giả định. Chúng
tôi nhận ra, trong những phát ngôn ngoài thơ của Vi Thùy Linh, những lời nói về
chủ đề tình yêu, tình dục, sự dâng hiến, mĩ cảm và sự dấn thân của thi sĩ là
điều sẽ được biểu hiện ở trong thơ. Những tuyên ngôn được thực hành tạo nên
chân tướng Vi Thùy Linh - một bản thể nghệ thuật không nhầm
lẫn. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ những phát ngôn có tính chất PR, làm cho
tên tuổi của Vi Thùy Linh trở nên rầm rộ (có sự hỗ trợ rất lớn từ truyền
thông). Chúng tôi gọi là: Vi Thùy Linh - con đẻ của truyền thông. Những lời này có tác dụng lớn nhất là giúp ta hình dung ra
một Vi Thùy Linh đầy nhiệt tâm với nghiệp thơ, với những gì liên quan đến thơ
ca và kẻ theo đuổi con đường ấy. Những lời này có thể đầy mâu thuẫn, có thể
“nóng gắt”, đôi khi không được bảo chứng bằng thực hành nghệ thuật cũng như
hiện thực đời sống của nghệ sĩ. Đó chỉ là những “thủ thuật” của một “quản trị” biết
cách làm cho tên tuổi của mình không lẫn đi, khuất chìm giữa đám đông. Vi Thùy
Linh không phủ nhận điều này. Chị thừa nhận mình là người có khả năng PR, biết
lôi kéo dư luận và tạo nên dấu ấn trong lòng công chúng (mà thơ chỉ là một con
đường, một phương cách). Nhận diện Vi Thùy Linh là sản phẩm của truyền thông,
nghĩa là chúng tôi xác định Vi Thùy Linh thuộc về kỉ nguyên này - nơi truyền thông là phương tiện kiến tạo nên diện mạo của
một cá thể. Có sự hẫu thuẫn từ truyền thông, Vi Thùy Linh hiện hữu bằng những
khả năng hiệu quả nhất. Vì thế, ta có Vi Thùy Linh như ngày hôm nay. Trong bài
viết chúng tôi cũng đặt ra vấn đề tính hai lưỡi của truyền thông: danh tiếng và
ảo vọng, vinh quang và cả những lụy phiền, cái được và cái mất từ những phát
ngôn ấy. Phát ngôn ngoài thơ của Vi Thùy Linh đem đến cho cộng đồng những hình
dung về một con người đầy nhiệt hứng, tham vọng, sắc sảo nhưng không phải không
có những toan tính hướng tới mục đích quảng bá hình ảnh, thơ ca của mình đến
công chúng. Trong vận động ấy, đôi khi, thơ không còn đứng ở vị trí trung tâm,
những mục đích khác ngoài thơ được dụng tâm nhằm gây nên hiệu ứng ngược đối với
lời thơ. Vi Thùy Linh nói nhiều và gay gắt như sợ người ta sẽ quên mất chị. Đó
là một thủ thuật - cũng là một quy luật trong kỉ nguyên thông tin hiện nay mà
có lẽ Vi Thùy Linh rất hiểu. Điểm lại những phát ngôn ngoài thơ của Vi Thùy
Linh: Vi Thùy Linh tâm sự về nghề, Dẫu
đời là một sân khấu lớn, tôi không đến các vũ hội hóa trang, Vi Thùy Linh - tôi
bị lợi dụng, Lời dành người đồng hành - lời của
tác giả trong Đồng Tử, Lời tự tình cùng độc giả - lời trong Vili in love, Lời
tỏ tình - mở đầu Phim đôi -tình tự chậm, Nhà thơ Vi Thuỳ Linh: Trong sáng tạo tôi điên cuồng và
tận lực,
Nói chuyện với Vi Thùy Linh (Thụy Khuê), Vi Thùy Linh trả lời bạn đọc
Vietnamnet, Nhà thơ Vi Thùy Linh: trẻ không phải là “trẻ người non dạ”… ta thấy
phẩm tính đó của phát ngôn hiện lên khá rõ. Trong một thế giới chưa được
“phẳng”, sự bình đẳng của các diễn ngôn, các kiểu lời có lẽ chỉ là một sự mơ về
nào đó. Những lời ở ngoài thơ của Vi Thùy Linh mang ý hướng “bổ trợ” cho diễn
ngôn thơ, có tác dụng minh giải, phụ họa thậm chí tôn vinh thơ, tạo nên những
hiệu ứng tương tác nhất định đến sự tiếp nhận lời thơ.
Những lời ngoài thơ của Vi Thùy Linh
đem đến cảm giác chị đang sở hữu quyền lực của một nhân vật “chiếu trên” trong
làng thơ đương đại Việt Nam. Đồng thời, người ta cũng đặt ra giả thuyết có thế
lực nào đó đứng sau Vi Thùy Linh để tiếp sức cho nhà thơ hay không? Mọi thứ là
giả thuyết, vì thế nó có thể bị phủ định. Tuy nhiên, khi chưa có lời giải cuối
cùng cho bài toán Vi Thùy Linh, thì những giả thuyết ấy không thể không đặt ra,
nhất là khi Vi Thùy Linh có những người “bạn” tinh tú, danh giá và không ít
nhân vật mang quyền lực. Buông lời thách thức về khả năng lôi cuốn truyền
thông, khả năng tìm kiếm những người bạn danh giá…
là một biểu lộ có phần sơ hở của Vi Thùy Linh. Chính từ sự biểu lộ này, chân
tướng của chị càng hiện lên cụ thể hơn. Người ta có thể nghĩ tới một sự “hắt
sáng” của các tinh tú ấy lên Vi Thùy Linh lắm chứ?
Lời của Vi Thùy Linh mang nhiều mâu
thuẫn. Đó là hệ quả không thể tránh khỏi của việc nói nhiều. Thường thì sự mâu
thuẫn xuất hiện giữa những tuyên ngôn ngoài thơ và sự thực hành nghệ thuật.
Cũng có khi, giữa những cuộc nói chuyện, luận bàn, nhà thơ có những mâu thuẫn
với nhau… và truyền thông đã làm cho những lời nói không thể bay đi,
tạo nên biết bao hệ lụy cho thi sĩ. Chỗ này chị nói mình viết bằng bản năng,
chỗ kia lại dứt khoát không hề bản năng, chỗ này quả quyết đề cao phái tính chỗ
kia lại nói rằng khi viết tôi quên ý thức phái tính, chỗ này chị nồng nhiệt nói
về đối tượng của thơ chị là cả những người lao động bình dân, chỗ kia chị lại
nói thơ chị hướng đến độc giả ưu tú, chỗ này chị muốn là nhà thơ của đời đầy
“phong nhiêu” chỗ kia lại khát khao trở thành một nhà thơ “sang trọng và quý
tộc”, chị nói nhiều, róng riết cuồng nhiệt đôi lúc đến cực đoan, “nóng gắt” vậy
mà khi có người hỏi “Chị sẽ làm gì
khi có người nói rằng, chị kiêu ngạo và bị bệnh vĩ cuồng?” Vi Thùy
Linh cho rằng “Tôi là một phụ nữ sống bình thường trong ý thức về bổn phận. Tôi đã viết
trong thơ của mình: "Em lớn thêm
trong lặng im/ Em đẹp lên bởi
biết im lặng" (Vi Thùy Linh: Tôi dính quá nhiều đòn roi vì nói về tình dục trong thơ - An ninh thủ đô, http://vietbao.vn).
Quả đúng như Linh tự thú: Tôi là tôi/ Một
bản thể đầy mâu thuẫn.
Chân tướng Vili trong thơ
Lời thơ của Vi Thùy Linh được chúng
tôi khảo sát trên 5 tập thơ: Khát, Linh, Đồng tử, Vili in love, Phim đôi - tình tự chậm.
Chúng tôi gọi bằng một tên gọi riêng, biểu lộ thái độ nghiêm túc khi đứng trước
hiện tượng thơ ca này: Thế giới nghệ thuật thơ Vi Thùy Linh.
Cõi
yêu
Không gian nghệ thuật trong thơ Vi
Thùy Linh là cõi yêu. Cõi ấy là sự trừu hiện từ góc nhìn của một kẻ luôn sống
trong tình yêu, luôn đi giữa mùa tình. Phần làm nên giá trị nhất của thơ Vi
Thùy Linh đúng như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra là thơ tình. Một tình yêu vừa
thiêng liêng vừa trần thế. Cõi yêu của riêng Linh và Anh được dựng nên từ khát
vọng được sống, được yêu, được trọn vẹn trong bổn phận. Hãy nhìn vào thế giới
của Vi Thùy Linh - thế giới phản ánh quan niệm, tình cảm, thái độ của chị,
chúng ta sẽ nhận ra tiếng thì thầm tỏ tình, tiếng của những khát khao đang dâng
lên, lan tỏa và bùng vỡ, tiếng nấc nghẹn vì cô độc và buồn tủi, tiếng thở dài
của những hoài mong không tới, tiếng giọt nước mắt vọng lại từ nỗi đau còn mới
nguyên hay những tiếc nuối xa xôi ngỡ như đã yên ngủ…:
Chúng ta xuyên qua đêm bằng thầm thì/ Ám
ảnh nhập Anh vào em/ Đang nhớ đang nhớ đang nhớ/ Lời tỏ tình hàng đêm bảo lưu
thanh xuân của chúng ta (Tìm thấy); Những đường cong khỏa vào sóng chữ/ Em say
nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé/ Mặc cho búp hôn thụ phấn thân người (Say
nắng); Gió làn gió thổi sương thao thác/ Đêm run theo tiếng nấc/ Về đi anh!/
Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh (Người dệt tầm gai); Những cơn gió
lao đến bế thốc mùa Thu đi/ Những cánh tay chạm vào…em…run rẩy/ Không phải tay
Anh! Một mình em nức nở (Nói với Anh); Loài người đang lả đi vì những chuỗi thở
dài/ Em rơi xuống theo từng tiếng nấc bơ vơ (Nơi ánh sáng). Linh thường bộc
lộ khát khao yêu đương của mình một cách không giấu diếm. Thế nhưng, như một sự
đối lập, đỉnh cao của tiếng yêu trong thơ Linh lại là sự lặng im. Lặng im để
nhớ, lặng im để buồn, lặng im đau, lặng im khóc, lặng im thở dài, lặng im dấu
tháng năm vào tóc… và lặng im trên đỉnh sóng cuồng si: Em ngồi đăm đắm trong đêm/ Thấy mình đang chín dần khi tuổi còn xanh
lắm/ Ký ức thức/ Tuổi thơ trôi như giấc ngủ sâu (Tiếc nuối); Khu vườn ắng lại, chỉ
còn Anh và em/ Khởi đầu phận sự thiêng liêng/ Những cặp chân khóa chặt nhau
khước từ chân lý! (Anh sẽ ru em ngủ); Trên da thịt đôi ta, theo hơi thở Anh,
mưa xuân đang ấm/ Gió lên tình, vờ như không phân biệt nổi mùi nàng với ngàn
hoa (Ngưng lại mùa xuân); Đẹp biết bao lúc Anh ôm em nghẹn ngào, cả hai cùng im
lặng/ Im lặng mọc mầm trên da niềm niềm trinh bạch/ Im lặng cho tình yêu sâu
thẳm dồn nhập xuyên mùa (Trên ngực anh); Trong im lặng tột độ của lời/ Lẳng
lặng trái mọng, căng lên những cánh hoa ngưng đọng/ Bầu ngực mở ra thế giới dịu
dàng (Ngày Linh). Điểm mâu thuẫn nhất giữa lời và ý tình trong thơ Linh
chính là chỗ này. Tứ thơ khởi tạo là một chớp bắt về sự lặng im. Cái im lặng
của nụ hôn dài say đắm, cái im lặng của ánh mắt đẩy em về phía ngày nắng tắt,
cái im lặng nuốt khan tiếng rên những đêm khát nhớ, cái im lặng khi thịt da
thức giấc, cái lặng im vỡ trào và ngưng đọng…
Linh nói nhiều về nó thành ra cái im lặng được phát biểu quá ồn ào. Tâm lý đám
đông truyền thống vốn vẫn ngại ngần trước nụ hôn, vòng tay nơi quảng trường,
cho đó là một sự “lệch chuẩn”, thái quá, có khi còn là sự hư hỏng… Linh không thể làm khác được. Thế giới của kẻ đang yêu phải
tràn ngập những luân vũ của ái tình. Mâu thuẫn giữa lời (hình tướng) và bản
chất của nó (ý tình - tứ) là điều chưa mấy ai để tâm mà
nói hộ Linh. Khi yêu, người ta tương tư, người ta mê mải nói về lẽ yêu ấy. Vi
Thùy Linh cũng vậy. Có lẽ, cái Vi Thùy Linh làm cho người ta nhắc đến nhiều hơn
cả là lời của chị. Ý tình xem ra vẫn thế, nguồn yêu vẫn chảy tự xửa xưa qua vui
buồn, cay đắng, qua hạnh phúc, li tan, qua xác thân thành thật… Không thấy Linh có gì đột phá. Chỉ khác chăng chị nói bằng
cách của mình, nồng nhiệt biện minh cho một hình thái sống mới. Hãy hình dung
dải yếm xưa và thứ phục trang có chức năng tương tự hôm nay. Thơ Linh là thứ
trang phục của hôm nay.
Thanh âm của cõi yêu hợp với màu sắc
và ánh sáng, như là sự trang hoàng đón chờ đêm hẹn. Cõi yêu trong thơ Vi Thùy
Linh luôn luôn là nơi diễn ra những cuộc hẹn hò, những gặp gỡ khát nóng. Trong
thơ của mình, Vi Thùy Linh muốn mầu tím trở thành một biểu tượng về màu sắc của
ViLi. Màu tím của hoa Violete, Lila, Lavende, bằng lăng, đậu tím như là một gợi
dẫn để Linh tạo nên sắc tím của mình. Tôi cứ có ấn tượng mầu tím hợp với sự im
lặng và mang chứa niềm bí mật, dù đọc thơ thấy ViLi ít bí mật. Đúng hơn bí mật
đã bị thổ lộ bởi kẻ nhiều lời Vi Thùy Linh. Không thể phủ nhận mầu tím trong
thơ Linh đã được tạo nên bởi một tâm thức của người nữ muốn biểu tỏ vẻ kín đáo
của mình. Kín đáo mà đầy vẫy gọi. Nếu bây giờ vẫn nói thủy chung e là sáo rỗng
và cũ kĩ, nhưng quả thật mầu tím đem đến một niềm tin. Đọc vào các tập thơ của
Vi Thùy Linh chúng tôi nhận thấy mầu sắc biểu đạt được ý tưởng của chủ thể.
Không chỉ có tím, trắng, xanh, hồng là những màu được Linh đặt niềm tin về sứ
mệnh biểu đạt một cõi yêu đầy mầu sắc. Sự hi vọng, sự thanh khiết, niềm lãng
mạn được gửi gắm cả ở đấy. Linh có vẻ thích mầu tím, cũng nhận là “nàng Tím”
trong thơ…Nhưng để tím trở thành một màu sắc mang tính biểu tượng có
lẽ cần dụng tâm nhiều hơn nữa: Vườn Địa
đàng một Eva Linh/ Cánh đồng Violette mênh mông/ Làm nên bao ái tiệc/ Mùa hạ
băng thảo nguyên Lavende/ Hoa tím miền trinh miên quyến rũ/ Tất cả đại tiệc
yêu/ Chủ đạo Trắng - Tím/
Trắng hồng thít Chàng Nàng/ Tím thế gian sang trọng lãng mạn vô cùng/…/ Cho màu
yêu loang nhiều thế kỉ” (Một truyện ngắn về nàng Tím hay là Eva Linh). Có thể ở bài thơ này, bài thơ khác Vi Thùy Linh nhắc đến
mầu tím, gọi tên thế giới tím, phố tím, nàng Tím…nhưng
khảo sát toàn bộ thơ của chị ta thấy mầu sắc trong thơ Linh không có gì đặc
biệt - trên phương diện nghệ thuật biểu đạt. Màu chưa được tu sức
đến mức trở thành biểu tượng. Nếu kĩ lưỡng, người đọc còn có thể thấy rằng, màu
tím trong thơ Linh còn chưa đạt đến mức hình tượng, nó đơn thuần chỉ là những
hình ảnh gây được ấn tượng: Hãy cứ tin ở
huyền viễn, dẫu trí óc ta lẫn lộn vô định, mô phỏng/ Trong cả cơn thịnh nộ
khiến ánh sáng rớm tím hóa sứ những cánh hoa (Đôi mắt anh). Khám phá thế
giới màu sắc trong tác phẩm thơ thực ra là sự thâm nhập vào nội tâm của thi sĩ,
lí giải thế giới nghệ thuật từ một thành tố trong cấu trúc thi phẩm. Những lặp
lại của một yếu tố nào đó đòi hỏi phải được lý giải. Màu sắc cũng vậy. Màu sắc
trong thi giới của Linh là những hình ảnh đẹp, đầy sức gợi, nhưng tiếc rằng nó
lại là sản phẩm của trí tưởng tượng hơn là sự vẫy gọi của một “nhiệt hứng” đòi
xác tín một giá trị. Cõi yêu không tím trong những mô tả của Linh hay đúng hơn
là nỗ lực của Linh chưa tím hóa thi giới của riêng mình.
Ánh sáng là một tác nhân làm cho cõi
yêu của ViLi thêm lãng mạn và ẩn giấu bí mật. Như một tất yếu, để cất giấu bí
mật, để tình tự chậm, không gian yêu chỉ được thắp lên những đốm sáng huyền ảo
của nến, của mắt yêu, của ngày nắng tắt, của đêm. Thi thoảng, ta thấy một bình
minh rực rỡ, một ban mai xanh, một ánh nắng ngần trong như em vừa tắm… Ánh sáng của cõi yêu được “khêu nhỏ” lại, vừa với những lời
thủ thỉ và che giấu niềm bí mật: Anh hiện
ra buổi tối dịu dàng/Đỡ lấy em, khắp trần gian những chuỗi nước mắt” (Mùa
tình); Đêm run theo tiếng nấc/Về đi Anh/Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi
Anh” (Người dệt tầm gai). Mọi thứ ánh sáng dường như chịu sự lan tỏa, sự
chi phối và thống trị của ánh sáng tỏa ra từ Anh, từ đôi mắt, nụ cười, đôi môi
và thân thể Anh. Đêm là bóng tối nếu Anh không đến, mọi ánh sáng sẽ lu mờ, tan
loãng nếu em lặng lẽ trong niềm cô độc. Cõi yêu hiện hình với tất cả màu sắc,
ánh sáng và thanh âm là khi những hò hẹn bắt đầu, khi tình yêu thức giấc mọi
giác quan: bóng tối và cái chết không thể
trùm lên em/ Vì em biết mãnh liệt neo vào Anh yêu thương chan chứa/ Vì Anh bao
bọc em bằng hơi ấm thủy chung bằng ánh sáng” (Nơi ánh sáng).
Trong đôi mắt kẻ đang yêu, thế giới
là cõi yêu. Từ những khu vườn, căn nhà, ban công, ô cửa sổ đến những quán cà
phê, khách sạn sang trọng, lãng mạn, từ những con phố đến ruộng đồng hay vượt
qua biên giới đến Paris, Rome, từ trần giới đến vườn Địa đàng, cả lúc thức và
trong chiêm bao… ViLi đều yêu cuồng nhiệt. Đó là điều Vi Thùy Linh muốn biểu
đạt trong lời thơ. Với Vi Thùy Linh đó là nguồn sống, là nội lực làm nên nghệ
thuật. Chúng tôi cho rằng điều đó thật đáng quý. Độ sống, chất sống ngưng kết
trong thi phẩm trở thành chất thơ. Chất thơ là một tiêu chí quan trọng cốt lõi
để xác định loại hình thơ (so với những loại hình ngôn từ nghệ thuật khác không
lấy chất thơ làm trung tâm). Vi Thùy Linh muốn biểu đạt một không gian ái tình
hiện đại cho con người hiện đại (con người hiện đại đủ đầy và sành điệu). Đó là
quan niệm về chất thơ của chị.
ViLi không phải là kẻ thống trị cõi
yêu. Anh mới là kẻ trị vì đầy uy quyền trong cõi giới ấy. Quyền uy đến như là
một cấm kị, ViLi luôn phải trang trọng gọi Anh (viết hoa -
tôn xưng). Anh - người tình, kẻ ban phát ánh sáng, tình yêu, kẻ kiến tạo nên
chính cuộc đời ViLi (người nữ tội nghiệp trong thơ Vi Thùy Linh - Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn - Hồ Xuân Hương): Tất cả em ngày về, Anh hãy nhận/ Thể xác và
linh hồn em của Anh//…/ Em thèm được sinh sôi như đất/ Em thèm thở bằng hơi thở
Anh/ Để là Linh/ Miền đất chờ Anh toàn quyền lộng hành! (Bờ của chích bông).
Anh có lúc là một “đối ảnh” của ViLi trong những khát khao sống và yêu - sự hợp
cẩn của những cuồng nhiệt được yêu, được sống, được giải thoát. Nhưng cũng có
khi, kẻ thống trị ấy không đoái hoài gì đến ViLi tội nghiệp: Anh đã hẹn và không đến/ Em lạc cho đêm về
em// Lạnh dần cặp đùi bơ vơ (Ly); Quỳ trong đêm, em cởi mình/…/ Sao Anh không
bế em ra khỏi cô đơn, ra khỏi những ngày dằng dặc nhớ (Nói với anh). Anh
trong cõi yêu của ViLi là một người đàn ông hiện đại, biết nồng nàn và biết cả
thờ ơ, tẻ lạnh. Cứ thế, những khát thèm được nuôi dưỡng giữa cõi yêu.
Cõi yêu là không gian nội cảm của Vi
Thùy Linh được hình hóa bằng ngôn ngữ, thi ảnh. Không gian ấy biểu đạt quan
niệm của thi sĩ về giá trị của sự sống. ViLi trong thơ Vi Thùy Linh chỉ sống
khi được yêu. Nếu ra khỏi cõi yêu, ViLi nhợt nhạt và úa héo. Đó là giới hạn mà
chính ViLi đã nhận ra. Ở cảm thức này Vi Thùy Linh không phải là người tiên
phong, cũng không phải là người tạo nên cách tân đột phá. Những cung bậc truyền
thống của yêu đương được tái hiện trong hình hài mới hiện đại, sành điệu, trong
một không gian sang trọng và quý phái dễ quen với con người hôm nay. Nhưng con
người hôm nay phần lớn vẫn mang tâm thức truyền thống vì thế ngỡ rằng Linh đem
đến nguồn yêu mới. Kì thực, Linh chỉ đem đến một hình hài mới cho một điệu yêu
đương đã quen thuộc.
Mùa
tình
Trong thi giới của Vi Thùy Linh chỉ
có một mùa, đó là mùa tình. Thời gian trong cảm niệm của kẻ đang yêu là những
phút giây bất tận của yêu đương. Từ Khát
đến Linh, Đồng Tử, Vili in love, Phim đôi - Tình tự
chậm là những chuỗi tình tự quên thời
gian.
Người đọc sẽ thấy một mối liên hệ có
tính áp chế của giới quyền Anh lên thời gian của Vili. Thực tế, mùa tình chỉ
đến khi có Anh. Anh là người quyết định sự tồn sinh hay lụi tàn: Ngày Anh đến mùa tình lên/ Yên lặng mở những
ngón tay chìa khóa (Mùa tình). Khi mùa tình về, những khoảnh khắc của thời
gian như đêm, ban mai, ngày, chiều, buổi hẹn hò, thời khắc Anh về…được miêu tả là những “phiên” tình tự đầy mê khát: Đẹp biết bao giây phút Anh ôm em nghẹn ngào,
cả hai cùng im lặng/ Im lặng mọc mầm trên da niềm trinh bạch/ Im lặng cho tình
yêu sâu thẳm dồn nhập xuyên mùa (Trên ngực Anh).
Kéo dài những thời khắc hạnh phúc
bằng cách tình tự chậm có lẽ là một ý niệm hay về thời gian của Vi Thùy Linh.
Không phải đến Phim đôi - Tình tự chậm
thi sĩ mới có ý niệm này. Tâm lý thông thường, ngày vui thường ngắn ngủi. Những
giây phút tự tình sẽ trôi nhanh đến không ngờ trong cảm giác của kẻ đang yêu.
Tình tự chậm, quên thời gian hay ngưng đọng thời gian đều là cách Vi Thùy Linh
thiết lập thứ thời gian yêu của riêng mình trong thơ. Tôi cho rằng, tình tự
chậm là một ý tưởng độc đáo của riêng Vi Thùy Linh đóng góp vào việc thể hiện
những kiểu thời gian trong nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là thời gian mang
tính quan niệm. Chính vì thế, không ai truy vấn cả ngàn năm dồn lại trong cái
hôn vĩnh cửu, cả trăm năm chỉ có thể là thoáng chốc, và Chiều nào cũng là chiều chủ nhật/ Đêm nào cũng tràn ban mai Anh/ Như
chiều em chiều Anh (Trên ngực anh).
Không tách rời mà luôn song hành với
khoảnh khắc yêu đương là những phút giây, ngày tháng xa cách, lìa tan… Trong cõi yêu của Vili có những thời gian đếm bằng tóc
rụng, bằng bóng vỡ, bằng tiếng nấc nghẹn, tiếng nuốt khan những khát vọng… Có lẽ ở đây, ViLi mới hiện hết phẩm tính của mình là một
người nữ lệ thuộc Anh đến tuyệt đối. Vẫn là mùa tình đấy thôi, nhưng là khi Anh
không đến, không về. Một nửa ViLi chông chênh trong cõi yêu bật lên tiếng hờn
tủi: Anh đã hẹn và không đến/ Em lạc cho
đêm về em// Lạnh dần cặp đùi bơ vơ…(Ly); Mái tóc chảy xuống những sợi dung
nham/ Em không có Anh vẫn một nửa Vi Thùy Linh! Biển ngày vẫn nườm nượp sóng
(Một mình). Thời gian khi này là thù địch của nhan sắc. Thời gian rụng
xuống bên tóc em những hạt cỏ không thể nảy mầm. Càng khao khát yêu đương càng
âu lo về sự tan vỡ, chia lìa. Thời gian trôi qua đau đớn khi em chớp mi vào
cánh hoa tàn. Hoa rụng như một xác tín về tính vô thường của sự sống không thể
nào khác được như em đi qua tuổi mình trong những thắc thỏm về định phận, về
Anh.
Mùa yêu của ViLi là sản phẩm được
tạo dựng từ cảm niệm của kẻ đang yêu. Càng trải nghiệm thời gian này, ta càng
nhận ra hình bóng người nữ lệ thuộc vào định phận. Thời gian của ViLi không
được quyết định bởi ViLi mà luân chuyển theo quỹ đạo của Anh. Với những phẩm
tính ấy, mùa tình của ViLi là một diễn giải nữa về thời yêu của truyền thống.
Linh vẫn sống giữa mùa tình ấy trong thân phận người nữ chờ đợi, khát và âu lo…
ViLi trong “ngục tù” của Anh
Chân dung người nữ dần lộ sáng khi
ta lắng nghe kĩ những lời vọng ra từ cõi yêu của ViLi. Các nhà nghiên cứu, phê
bình đã dụng tâm chỉ ra, Vi Thùy Linh là thi sĩ ái quyền (Chu Văn Sơn), Nữ
quyền (Dương Tường, Văn Giá…), Tính nữ (Nhã Thuyên) (chúng ta
lưu ý những đặt định này là kết quả của những suy ngẫm về chân dung nghệ thuật
của tác giả); “Tự yêu mình và tòng thuộc nam quyền” (Trần Thiện Khanh - đây là
sự diễn giải trên tinh thần của luận đề “cái chết của tác giả” - chúng tôi tán đồng một nhận thức về sự khác biệt của ViLi
và Vi Thùy Linh)… Những mảnh ghép của một chân dung hay đúng hơn là từng cấp
độ của sự phơi mở, hé sáng. Trong khảo sát của mình, chúng tôi nhận thấy có một
ViLi đầy nữ tính, thiện nguyện là tù nhân
của đế chế Anh. Một ViLi đang nhận sự ban phát tình yêu - Nạn nhân của xã hội nam quyền với sự quy hàng không ý thức.
Đó là một bản ngã sùng tín nam tính và cơn khát ái tình trong nỗi sợ hãi bị bỏ
rơi. Bởi thế, chứng tự si sinh ra như là những vỗ về trong sự hiện hữu của niềm
cô độc - ViLi tự yêu tình yêu của mình. Dường
như rất khó để có một thỏa thuận ViLi là một hình tượng mang tư tưởng nữ quyền
cũng như khẳng quyết Vi Thùy Linh là nhà thơ nữ quyền luận. Người nữ chẳng có
quyền lực gì trong cõi yêu của ViLi. Vi Thùy Linh chỉ là một nhà thơ cất lên
tiếng nói về khát vọng được yêu, được sống của người nữ trong tình yêu của Anh.
ViLi có dám “quẳng” Anh ra khỏi cõi yêu của mình không? ViLi có dám thực hành
một thứ tình yêu khác chối bỏ những tác động từ Anh không? Nữ quyền luận tuyệt
đối phải là sự quy thuộc tất cả về người nữ, tuyên xưng người nữ. Anh nếu có
xuất hiện cũng chỉ là kẻ “tòng thuộc” giới quyền của người nữ. Như thế, ta thấy
Vi Thùy Linh là một nhà thơ như bao nhà thơ của cõi này đã ca hát về tình yêu
trong định phận nữ giới của mình: Dành em
cho Anh - tặng vật của Chúa trời/ Vì chỉ Anh
thấy em trong tấm gương đức hạnh/ Phủ phục dưới hào quang huy hoàng của vòng
tay thống trị…(Teressa); Tất cả em ngày về, Anh hãy nhận/ Thể xác và linh hồn
em của Anh//…/ Em thèm được sinh sôi như đất/ Em thèm thở bằng hơi thở Anh/ Để
là Linh/ Miền đất chờ Anh toàn quyền lộng hành! (Bờ của chích bông); Cho em ngủ
ngon trong vòng ôm định phận của Anh… (Cất giấu); Tôi hôn Anh rưng rưng và biết
mình đang trở thành nô lệ của tình yêu, một nô lệ không cần giải phóng/…/ Tôi
yêu Anh như tuân theo sự sắp đặt của Đấng Sáng Thế/…/ Phủ phục trước Anh/ Hiến
dâng trong hạnh phúc tuyệt đích của nô lệ tình yêu không muốn được giải phóng”
(Thánh giá)…
Có 3 nguyên nhân khiến người ta dễ
ngộ nhận Vi Thùy Linh là nhà thơ nữ quyền. Thứ
nhất, Vi Thùy Linh là nữ. Điều này tạo nên nỗi ám ảnh có tính vô thức về
một chủ thể sáng tạo đứng trong giới quyền của nữ. Thứ hai, Vi Thùy Linh nói về khát vọng được yêu đương, được sống
trong tình yêu của người nữ. Thứ ba,
Vi Thùy Linh nói nhiều, nói to và rất bạo dạn về tình yêu đó. Trong những thám
sát của mình, chúng tôi cho rằng đó mới chỉ là hình tướng của Vi Thùy Linh.
Chân tướng là cái dấu sau hình tướng, cái không thường hiện nhưng lại là bản
lai diện mục của đối tượng - Vi Thùy Linh một chủ thể sáng tạo
quy thuận quyền lực nam giới. Vi Thùy Linh sáng tạo như đấy là sự sống của chị.
Sống, yêu và hát ca về tình yêu lắm khi Linh chẳng nghĩ rằng mình cần phải thế
này, cần phải thế khác. Cứ tự nhiên biểu tỏ độ sống, chất sống của mình. Ý thức
về phái tính có hay không có, đôi khi chỉ là những cách định danh về một lẽ
thường của sự sống trong con người Vi Thùy Linh.
Có một vấn đề khá lý thú chúng tôi
nhận ra trong quá trình nghiên cứu Vi Thùy Linh và thâm nhập vào cõi yêu của
ViLi đó là tình yêu và đối tượng của tình yêu trong cõi giới
ấy. Anh là một “Quyền lực tượng trưng” (Piere
Boudieu - Sự thống trị của nam giới, Lê Hồng
Sâm dịch, Nxb Tri thức, 2011)
có tính áp chế tuyệt đối đến mức sự tòng thuộc của ViLi là vô thức. Tuy nhiên,
nhận kĩ ta thấy có một biểu hiện khá đậm nét thuộc về ViLi. ViLi yêu chính tình
yêu của mình. Nghĩa là, trong cõi yêu của ViLi, tình yêu của nàng được hiện lên
như là một đối tượng độc lập của thi giới. ViLi say sưa với tình yêu đó, mô tả
tình yêu và các cung bậc, sắc thái, các trạng huống yêu đương. Anh vẫn là kẻ
thống trị nhưng Anh không hiện lên rõ bằng tình yêu em dành cho Anh. Yêu chính tình yêu của mình là một biểu hiện
trong chân tướng của ViLi. Có lẽ ở đây ta mới thấy Vi Thùy Linh và ViLi có
điểm thống nhất về mặt khí chất bản nguyên. ViLi nhỏ nhẹ, lặng im yêu tình yêu
ấy, Vi Thùy Linh ào ạt, bộn bề trong tình yêu ấy. Cả hai đều có cách biểu tỏ
riêng về cùng một đối tượng - tình yêu - một đức tin hướng về Anh. Có thể
hiểu nét nghĩa thứ hai của tự tình
theo hướng này. Yêu tình yêu của mình, cả Vi Thùy Linh và ViLi là sự hiện hữu
của một bản thể tự si. Chau chuốt cho tình yêu, nâng niu ve vuốt tình yêu, bởi
tình yêu là cống vật thiêng liêng vô giá ViLi dâng tặng lên Anh. Ngực trắng khép nép, ngón hồng đồng trinh,
môi bỏng lửa, thon dài đùi muốt, đóa nhung đen nở mượt đường cỏ mịn, em dành em
cho anh lâu thế, đường cong, cởi mình, búp hôn thụ phấn thân người…là sự hiện hữu của tình yêu ấy -
ViLi gọi là trái yêu. Trái yêu mọng
chín luôn Cất giấu trong khu vườn Trinh tĩnh -
nơi chỉ có một Mùa tình. Tất cả những
bài thơ tình của Vi Thùy Linh đều xuất phát từ một mặc định, một xác tín về
tình yêu vừa thanh khiết vừa đầy nhục cảm. Đặc biệt hơn nữa, tình yêu ấy luôn
được nâng niu, luôn được gìn giữ để trao cho riêng Anh: Trong im lặng tột độ của lời/ Lẳng lặng trái mọng căng lên những cánh
hoa ngưng đọng/ Bầu ngực mở ra thế giới dịu dàng…(Ngày
Linh). ViLi chẳng có gì ngoài tình yêu
ấy. Yêu tình yêu là cách để ViLi thể hiện tình yêu dành cho Anh - sự quy thuộc tuyệt đối.
Những lời thơ họa chân tướng ViLi
trong cõi yêu của mình. ViLi đã ngấm ngầm mách nước cho chúng ta để nhận ra
chân tướng Vi Thùy Linh. Khi Vi Thùy Linh chưa bứt mình ra khỏi dòng chảy của
thi ca truyền thống, nơi rất nhiều thi sĩ ái tình đã đề bút, lưu danh, nên
chăng mọi sự đặt định mới chỉ là sự ươm lời? Bởi lẽ, sự đặt định nào cho Vi
Thùy Linh đây, khi những danh vị ấy đều đã thuộc về những người đến trước. Nếu
còn sức đi xa đến những miền đất mới, ươm những mầm thơ mới, ngày kia Vi Thùy
Linh sẽ cho ta mùa trái quả khác mà cô mang về… Khi ấy, bình minh sẽ gọi tên
người.
Thổi
cuộc yêu vào chữ
Các nhà nghiên cứu đã hơn một lần
nhắc đến vấn đề này. Chữ là đối tượng không thể không bàn đến khi nghiên cứu
thơ từ góc độ thi pháp học, ngôn ngữ học. Vi Thùy Linh không được xếp vào danh
sách những nhà thơ dòng chữ (Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng…) nhưng rõ ràng chị là một nhà thơ khéo chữ. Có những bài
thơ sinh ra từ sự khéo léo ấy (Chính Phim
đôi - Tình tự chậm với lối làm thơ “phim đôi” của chị đọc rất nhạt khi thơ như
là những tự sự về một cá nhân nào đó) không hấp dẫn được người đọc. Lôi cuốn
hơn vẫn là những bài thơ về ái tình của em và Anh. Chữ trong những thổ lộ ấy
hồi hộp chờ đợi anh về, run lên trong niềm hạnh phúc tê tái, nóng bỏng những
cuồng khát, dồn dập những đam mê…Vi Thùy Linh thổi cuộc yêu vào chữ
với những cung bậc của nó: Lúc mười hai
giờ đêm đến gần Anh đang đợi/ Phòng ngủ biển xanh mây bay thiên thanh/ Chiếc
giường đàn hương - máy bay
bằng gỗ/ Dâng mình lên theo cơ thể ngụt ngàn/ Dâng từng đợt mưa say, đợt cắn/
Anh trai tráng hệt như chưa lần nào/ Em nữ tính nhiều mà sao vẫn thiếu/ Đóa
nhung đen mở mịn đường cỏ ấm/ Còn nợ mùa thu vì em trắng quá/ Suốt đời mải miết
chạy theo tình yêu///// Vì em trắng quá mà đêm trong hơn/ Ngồi bên lò sưởi, bên
ghế chân quỳ, em chải tóc/ Anh để dành cho em chiếc lưỡi/ Da thịt dậy tình làm
rơi xiêm áo/ Em đợi chờ vuốt ve thắt bão/ Phòng sáng dịu đèn pin mặt trời, mùi
ngọc lan tây búp lay tao nhã, mùi thịt da mượt mềm lan tỏa/ Hàng thông bứt rứt
nhựa tuôn hổ phách, cối xay gió cuồng khi anh thổi từng trận gió lên lên xuống
xuống/ Mỗi đợt yêu lại sinh đời khác/ Không thể lười cũ kĩ thoát ly nhau/ Không
thể ngưng bùng nổ sóng lạc giao/ Lực tuyến dồn lưng nhịp gấp/ Em rừng thơ để
anh thụ hưởng/ Thon dài nằm ngoan trong tay anh, khi thế giới hiểm họa bạo tàn
bấn loạn (Tình tự ca)… Nhiều những bài thơ khác của Vi Thùy Linh mang phẩm tính
này trong chữ. Mĩ cảm của Linh hướng về cuộc yêu khởi tạo con chữ như là một
biểu tượng trong cõi yêu: Những đường
cong khỏa vào sóng chữ/ Em say nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé/ Mặc cho búp
hôn thụ phấn thân người… (Say
nắng); Ẩn trong em, nữ thần Aphrodite/ Đến với mọi người bằng sóng chữ tình
yêu” (Hãy phủ thơ khắp thế giới của em); Những con chữ nảy hạt dưới da/ Những
con chữ hòa máu em vào Anh/ Khát khao mở đường cong hợp cẩn (Mùa tình)… Nhưng
phải thừa nhận có lúc cái khéo đã trội lên nhằm diễn dịch cuộc yêu nên có cảm
giác hơi sượng. Tình tự ca ở trên là
một ví dụ, và đây nữa: Anh hạ trời xuống
Anh nâng đất lên/ Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên/ Trên lưng Anh bơi mải miết
ngón ngón em dài trắng/ Môi em trườn đêm căng/ Duỗi chân dài em nối những ranh
giới, những núi đồi, sông biển, nhịp nhịp qua cầu đùi muốt/Vào lúc Anh lên em
lên Anh/ Thụ tạo giấc mơ ấp ủ/ Em đạt khát khao làm mẹ (Nơi ánh sáng)… Khát khao làm mẹ có thể là một niềm cứu chuộc cho sự trượt
ngã của chữ vào nhục cảm không ánh sáng. Nhưng dẫu thế, vẫn gợn lên trong ta
những con chữ cứ chực sa vào Lạc giới
(Một tác phẩm của Thủy Ana, Nxb Hội nhà văn 2008).
Chúng tôi cố gắng phân lập chữ và âm
của chữ. Dĩ nhiên, hai đối tượng này đều nằm trong cấp độ lời (Quan niệm thơ
gồm 5 yếu tố: ý - tình - hình -
nhạc - lời). Chữ ở đây chúng tôi quan niệm giống như chữ trong thơ
Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường… Truy xuất ngay “bóng” của chữ là một
ý đồ muốn khám phá khả năng tạo chữ của Vi Thùy Linh. Ấy là khi ViLi muốn biểu
tỏ vẻ đẹp của mình: đùi muốt, ngực trắng
khép nép, đóa nhung đen nở mịn đường cỏ ấm, cởi mình…
Chữ luôn thuộc về những động thái gợi tình. Danh từ với chức năng biểu đạt sự vật
không còn sức hấp dẫn (Ngực, bầu vú…). Trong cuộc yêu, chữ cũng động tình. Nhắc đến điều này ta
lại nhớ về những vần thơ của Hoàng Cầm:
Ngủ lại giấc mơ dang dở/ Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Áo may ba ngày mẹ vá lại/
Khuya nghe buồng động bóng trăng rằm (Đêm Mộc); “Xoa nắn đôi bầu vú lụa/ Sông
dài sóng đôi/ Mượt mà gò nổi/ Cánh rừng rưng say/ Hồng hoang hương ấm mấy chân
trời” (Nắng phù sa); Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu/ Ngực yếm phập phồng bưởi
ngọt” (Hội vật); Em không buộc thắt lưng thon nữa/ Thả búp tròn… căng…nuột…/ ấy
ơi/ Nguồn sống tuôn thơm nhựa ứa đầy/ Một chiều e sợ/ mấy chiều say/ Đã phanh
yếm mỏng thì quăng hết/ Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây” (Hội yếm bay)… Chữ
của Hoàng Cầm nhiều sức gợi, lơi lả, liêu trai, thâm nhập vào tưởng tượng, linh
thị của người đọc. Với chữ của Linh, tất cả hiện lên trước mắt ta, người đọc
mất đi cái hứng thú được theo đuổi tưởng tượng. Sự khác nhau về thế hệ, thời
đại đã chi phối tới quan niệm về chất thơ và thị hiếu của con người trong cách
tự biểu hiện. Phải chăng đó là cuộc yêu của con người thời hiện đại? Vi Thùy
Linh có một sáng tạo để sự “động hưởng” của chữ được hình hóa. Chồng hình bằng
kĩ thuật của điện ảnh cho ta những hiện hữu tức thời của nhiều chuyển động là
một điểm độc đáo trong kiến tạo thi ảnh của Vi Thùy Linh: Mình ôm lấy Anh ôm mình, Anh lên em lên Anh…
Dẫu thế, trong những nỗ lực rất đáng trân trọng của Vi Thùy Linh, ta vẫn chờ
mong một cuộc bứt phá mãnh liệt hơn nữa về phía trước, ra khỏi từ trường của
những hạt nhân truyền thống. Trong một điệu sống mới, một tinh thần mới chúng
ta có quyền hi vọng về một sự biểu hiện nghệ thuật mới của thi sĩ như là dấu ấn
để lưu giữ dáng nét của thời đại mình.
Lời
của ái ân
Ái ân là tâm điểm, là đỉnh cao tụ
mật trong cõi yêu, mùa tình của ViLi. Nghiên cứu lời của ái ân là hướng thâm
nhập vào giọng điệu của thi phẩm. Sẽ cần những nghiên cứu dài hơn về tất cả
những vấn đề được nêu ra trong tham luận này, tuy nhiên, trên tinh thần của
những phác thảo ban đầu, bước chân vào thế giới nghệ thuật của Vi Thùy Linh ta
có thể nói về giọng điệu của ái ân như một sự tự biểu hiện của chủ thể cõi yêu.
Giọng thủ thỉ tâm tình, tỏ tình là
dấu ấn đầu tiên ta gặp khi chạm vào ngưỡng cửa của cõi yêu. Như chúng ta đã có
dịp nói về âm thanh trong thế giới của ViLi, giọng tâm tình, thổ lộ xuất hiện
khi em và Anh bên nhau, khi ta xa nhau em thủ thỉ một mình: Những đường cong khỏa vào sóng chữ/ Em say
nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé/ Mặc cho búp hôn thụ phấn thân người… (Say nắng); Em sợ phải một mình/ Mái tóc như mùa thu rối/…/
Hãy hôn em, chẳng cần lời… (Khi em tựa cửa); Quỳ trong đêm, em cởi mình/…/ Sao
Anh không bế em ra khỏi cô đơn, ra khỏi những ngày dằng dặc nhớ… (Nói với anh)… Giọng
điệu này đối lập hẳn với những biểu hiện ồn ã của Vi Thùy Linh. Lời tình như là
hạt, gieo vào da thịt, vào mắt môi, vào nỗi nhớ khát đến đỉnh cao là sự ngưng
đọng, tĩnh lặng. Vi Thùy Linh nói hơi to, hơi nhiều -
cái kẻ đứng ngoài thế giới của ViLi ấy nhiều lúc đến là vô ý. Ta thấy trong cõi
yêu của ViLi người con gái biết yêu, muốn được yêu thật nhiều không cùng, không
thỏa. Những lời yêu dành cho Anh và em trong cõi ấy không “bời bời” ồn ã như
cách thể hiện của Vi Thùy Linh: “Sau
tiếng “Em của Anh”/ Chỉ còn tiếng thở của chúng ta như mạch máu vĩnh cửu
(Solo). Ngay cả khi nỗi nhớ tràn lên khát cháy, ngay cả khi nỗi đau tức
tưởi chợt ập về, trên đỉnh cuồng si cơn sóng tình, vẫn là giọng ấy. Khi thủ thỉ
bên tai, trên da thịt, giữa phiên hôn, khi nén nghẹn quay về khoảng trời bóng
vỡ, khi nuốt khan tiếng rên, khi những cặp chân khóa chặt…
giọng của ViLi vẫn thế và có xu hướng nghiêng dần rơi vào im lặng để cảm xúc
bùng lên dù đớn đau hay hạnh phúc. Vi Thùy Linh, người đã thực hiện một cuộc
trần thuật về ViLi và cõi yêu, mùa tình của ViLi làm cho câu chuyện trở nên ầm
ĩ. Nếu ai đó muốn bàn đến giọng điệu của Vi Thùy Linh hẳn phải nghĩ tới sự trái
ngược với giọng của ViLi trong cõi giới của nàng. ViLi không mang thứ quyền
năng nào trong mình ngoài một trái tim người nữ chỉ cầu mong được yêu. Lệ thuộc
tuyệt đối vào Anh, ViLi đâu dám lớn tiếng tuyên ngôn điều gì. Lặng lẽ nhiều khi
đến tội nghiệp, ViLi đi tìm Anh suốt dọc thanh xuân của mình: Chúng ta xuyên qua đêm bằng thầm thì/ Ám ảnh
nhập Anh vào em/ Đang nhớ đang nhớ đang nhớ/ Lời tỏ tình hàng đêm bảo lưu thanh
xuân của chúng ta” (Tìm thấy). Cùng với giọng tâm tình, tỏ tình là giọng
hờn tủi. Giọng này nén nghẹn, có lúc uất ức nhưng không hề thấy có dấu hiệu
trách móc: Anh đã hẹn và không đến/ Em
lạc cho đêm về em// Lạnh dần cặp đùi bơ vơ…(Ly); Em cay đắng quay về khi anh
đẩy em bằng mắt!/ Ánh mắt Anh-không-bay-được/ Lòng em vỡ (Từ phía ngày nắng
tắt); Sức trẻ có hạn/ Em cứ gồng lên… (Em - Bí mật).
Giọng điệu là một căn cứ để lý giải
phong cách của tác giả. Các nhà khoa học đã chỉ ra giọng điệu “nồng si, tươi
trẻ” trong thơ Xuân Diệu, giọng quê mùa của Nguyễn Bính, giọng đau thương rạn
vỡ của Hàn Mặc Tử, giọng ảo não của Huy Cận, (Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn
học, 2002)… Như thế, nếu cần một đặt định về giọng của Vi Thùy Linh sẽ phải chú
ý đến sự biểu hiện một cách thái quá, ồn ào về tình yêu của ViLi. Trong tham
luận này chúng tôi chú ý đến thế giới nghệ thuật -
sản phẩm của tư duy và mĩ cảm Vi Thùy Linh. Sự mâu thuẫn không phải đến giờ mới
được nhắc đến. Mâu thuẫn giữa chân tướng và hình tướng, giữa bản thể là một sự
lặng im với lời thể hiện ồn ã. Giọng của ViLi mâu thuẫn với giọng của Vi Thùy
Linh chính là một biểu hiện cụ thể mà chúng tôi chỉ ra. Những bài thơ nho nhỏ,
với giọng điệu tâm tình, thủ thỉ của Vi Thùy Linh lại chính là những bài thơ
hay, khi có được sự thống nhất giữa ý-tình-hình-nhạc và lời (Từ phía ngày nắng tắt, Người dệt tầm gai,
Nói với Anh, Nhật thực, Giao cảm, Giao mùa, Anh còn cho em…). Sự tranh cãi
về Vi Thùy Linh có nguyên nhân bắt nguồn từ sự mâu thuẫn này. Tứ thơ cần phải
được tổ chức bằng một hệ thống lời phù hợp. Mâu thuẫn giữa ý-tình (tứ) với lời - giọng làm nên những hệ lụy cho Vi Thùy Linh. Ở thơ, ta thấy
có những bài dài dòng, đại ngôn, những triết lý nặng nề, mòn sáo, những thuyết
rao ồn ào về những điều nhẽ ra cần sự biểu tỏ một cách tinh tế, kín đáo. Sức
thuyết phục không đến từ việc nói to, nói nhiều hẳn Vi Thùy Linh phải biết.
Nhịp
điệu của tình tự
Nhịp điệu là một vấn đề quan trọng
của việc nghiên cứu thơ. Không thể không đề cập đến vấn đề nhịp điệu trong cấu
trúc của thi phẩm. Với thơ, có thể là câu, là dòng thơ, là một hình tượng, mô
típ, có khi là thanh điệu bằng trắc hay sự luân phiên có tính chu kỳ của một
thành tố bất kì mang dụng ý của thi sĩ… Sự vận động của các thành tố này
trong một cơ chế có tính chu kỳ, tạo nên những bước chuyển động của ngôn từ,
hình ảnh, mô típ, cấu trúc hay thanh âm… chính là nhịp điệu của thơ. Những
yếu tố vừa điểm tới mới chỉ dừng lại là cấu trúc nhịp điệu bên ngoài. Cấu trúc
nhịp điệu bên trong chính là hơi thơ, là điệu tâm hồn với những bước quãng của
xúc cảm, tinh thần. Nhịp điệu giúp phân biệt thơ với các thể loại ngôn từ nghệ
thuật không phải thơ, giúp nhận diện thể loại thơ và điệu hồn của thi sĩ.
Với trường hợp Vi Thùy Linh, khảo
sát thế giới nghệ thuật của thi sĩ, bước chân vào cõi yêu của ViLi chúng tôi
nhận ra nhịp điệu chủ đạo của thi giới này là nhịp tình tự của ViLi. Thơ Linh
không theo một cấu trúc thể loại nào cả. Bởi thế, những nhịp điệu có tính khuôn
nền làm nên thể loại không có nhiều địa vị trong cấu trúc thi phẩm. ViLi và Anh
sẽ làm nên nhịp điệu của cõi yêu bằng chính nỗi nhớ, bằng sự mong mỏi, bằng hồi
hộp đợi chờ, bằng khát khao gặp gỡ, bằng lời trên da thịt, bằng môi hôn, sóng
mắt, nhịp thon dài đùi muốt, bằng eo thon, nhịp lưng, bằng đỉnh sóng đổ dồn… Nhịp của ViLi là nhịp của cuộc yêu, tình tự chậm nhưng đủ
các cung điệu, nhịp bậc: Lúc mười hai giờ
đêm đến gần Anh đang đợi/ Phòng ngủ biển xanh mây bay thiên thanh/ Chiếc giường
đàn hương - máy bay bằng gỗ/ Dâng mình lên theo
cơ thể ngụt ngàn/ Dâng từng đợt mưa say, đợt cắn/ Anh trai tráng hệt như chưa
lần nào/ Em nữ tính nhiều mà sao vẫn thiếu/ Đóa nhung đen mở mịn đường cỏ ấm/
Còn nợ mùa thu vì em trắng quá/ Suốt đời mải miết chạy theo tình yêu///// Vì em
trắng quá mà đêm trong hơn/ Ngồi bên lò sưởi, bên ghế chân quỳ, em chải tóc/
Anh để dành cho em chiếc lưỡi/ Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo/ Eo đợi chờ
vuốt ve thắt bão/ Phòng sáng dịu đèn pin mặt trời, mùi ngọc lan tây búp lay tao
nhã, mùi thịt da mượt mềm lan tỏa/ Hàng thông bứt rứt nhựa tuôn hổ phách, cối
xay gió cuồng khi anh thổi từng trận gió lên lên xuống xuống/ Mỗi đợt yêu lại
sinh đời khác/ Không thể lười cũ kĩ thoát ly nhau/ Không thể ngưng bùng nổ sóng
lạc giao/ Lực tuyến dồn lưng nhịp gấp/ Em rừng thơ để anh thụ hưởng/ Thon dài
nằm ngoan trong tay anh, khi thế giới hiểm họa bạo tàn bấn loạn” (Tình tự ca). Giữa cõi yêu, mùa tình, ViLi muốn tự tình thật chậm, hôn Anh
thật chậm, hôn Anh cẩn thận… Người nữ ấy muốn kéo dài mãi cuộc
yêu, muốn được tận hưởng mật ngọt của ái tình trong thời gian không hạn định,
ngưng đọng và vĩnh hằng. Nhịp của tự tình là nhịp của cuộc yêu. Đó là thứ nhịp
của độ sống, chất sống đã ngưng kết vào thơ, trở thành một thành tố trong chất
thơ của thi phẩm.
Có khi, nhịp thơ là nhịp của trái
tim thức vỡ, bàng hoàng, thảng thốt, hay là nhịp của thời gian đi qua trên tóc,
trên da thịt, qua những đêm một mình nuốt tiếng rên thầm bên chiếu chăn trễ nải
mong Anh về. Phải nói rằng, Vi Thùy Linh không có dụng tâm kiến dựng nhịp điệu
thơ từ cấu trúc bên ngoài. Tất cả tự hiện hình, tự chuyển động trong điệu sống,
nhịp tự tình của ViLi: Em tức tưởi trở về
khoảng trời bóng đỏ/ Bóng chèn nhau/ vỡ/ Lòng em/ vỡ/ Em lầm lũi lại đến trước
nhà Anh nhặt xác nỗi buồn vừa rơi, đốt lên thành lửa/ Rồi đi/ Sau lưng em ngày
nắng tắt (Từ phía ngày nắng tắt); Siết chặt nghẹt thở vòng ôm dặt dìu chưa từng
thấy/ Tiết tấu chậm/ Đôi ta/ Tan biến/ vào nhau (Tan biến)…
Nhịp điệu trong thơ là vấn đề quan
trọng, mang tính cốt lõi của thể loại. Sự phức tạp của tinh thần, sự đa dạng
của điệu sống quy định tính phong phú của nhịp điệu thơ, của từng thể loại,
từng tác giả, từng thời đại… Hướng tới sự tự do về mặt thể loại,
Vi Thùy Linh lấy nội lực làm điểm tựa để duy trì nhịp thơ, hơi thơ. Hình thức
lời thơ khiến ta liên tưởng đến một ViLi nhỏ bé trong bộ cánh thùng thình quá
cỡ. Không cần thiết phải khua chiêng trống trong ái tình. Nhịp điệu chủ đạo
trong cõi yêu của ViLi là nhịp điệu của cuộc yêu mà đỉnh điểm của nó là sự lặng
im. Những ngọn sóng chính là hình ảnh ưu trội nhất khi nghĩ về nhịp tình tự
trong cõi yêu của ViLi.
Nguyễn
Thanh Tâm
(Còn tiếp)
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment