.thongtin img{width:24px;height:18px;margin:5px 5px -5px 0} .thongtin li{margin:10px 0 20px}

Sunday, May 6, 2012

THI HÀO PHÁP LOUIS ARAGON (1982 - 2012): ĐƯỜNG ĐỜI MUÔN NẺO, ĐƯỜNG TÌNH THẲNG BĂNG

Louis Aragon (1897 - 1982) là một nhân vật khổng lồ của văn học Pháp thế kỷ XX. Không chỉ là nhà thơ lớn, ông còn là nhà tiểu thuyết bậc thầy, nhà phê bình văn học xuất sắc. Cùng với Andre Breton, Paul Eluard, ông là người sáng lập nên trường phái siêu thực trong văn đàn Pháp...

Năm 1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản và từng giữ cương vị Ủy viên BCH Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Là một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, sinh thời, Aragon đã được trao tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười và Giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lênin. Với bạn đọc và nhân dân Việt Nam, ông cũng là một tác giả có nhiều duyên nợ...

Vượt lên số phận

Sinh ngày 3/10/1897 tại Paris, Louis Aragon đã trải qua một tuổi thơ đầy sóng gió, bất hạnh. Là con ngoài giá thú, suốt một thời gian dài cậu bé không hề được ai nấy cho biết bố mẹ đẻ của mình là ai. Chỉ đến khi Aragon học năm thứ nhất Đại học Y, bị động viên vào lính để tham gia cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông mới bất ngờ được người "chị nuôi" tên là Marguerite gọi lại để thông báo một "bí mật khủng khiếp", rằng không phải ai khác mà chính chị ta là… mẹ đẻ của Aragon. Điều này đã khiến Aragon chết lặng đi trong "niềm hạnh phúc cay đắng". Riêng về bí mật liên quan đến người bố, phải mãi tới năm 1942, trước khi bà Marguerite mất, bà mới chịu hé lộ cho cậu con trai biết tên người đàn ông này (Louis Andrieux), bởi trước đó, ông ta đã trốn tránh trách nhiệm, không thừa nhận vợ con.
Một điều lạ ở Aragon là mặc dù gắn bó với sách vở từ nhỏ (chưa đầy 10 tuổi, Aragon đã viết… tiểu thuyết) song lớn lên, nhất là khi tham gia quân đội, ông lại xông pha chiến đấu như một chiến binh thực thụ, để rồi, sau khi giải ngũ, mặc dù mang trong mình thương tích chiến tranh, ông đã lại cùng các nhà văn, nhà thơ trẻ lao vào các hoạt động văn học nghệ thuật. Thoạt đầu, ông tham gia chủ nghĩa đa đa - một trào lưu văn học ra đời từ năm 1916. Nhưng cũng chỉ được chưa đầy 2 năm, Aragon đã rời bỏ chủ nghĩa đa đa để quay sang chủ nghĩa siêu thực và trở thành một trong những chủ tướng của trường phái này.
Tuy nhiên, khác với nhiều tác giả trẻ khác, Aragon không "siêu thực đến cùng". Trong khi nhiều nhà siêu thực gần như chỉ quan tâm đến sáng tác thơ, thì Aragon lại đầu tư nhiều cho việc viết tiểu thuyết. Sáng tác của ông cũng gắn bó với đời sống thực tại. Và đây là điều khác biệt cơ bản của Aragon so với những tác giả là môn đệ của trường phái này.
Thời gian Aragon "chung sống" với chủ nghĩa siêu thực không dài. Sau khi cho xuất bản các tập thơ: "Lửa vui" (1920), "Vận động vĩnh cửu" (1925), tiểu thuyết "Người nông dân Paris" (1926), Aragon đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa siêu thực để gia nhập Đảng Cộng sản Pháp.

Cuộc tình thế kỷ

Nhiều người đã biết, Aragon không chỉ nổi tiếng về tài năng văn chương mà trong lĩnh vực tình trường, ông còn nổi tiếng bởi "mối tình thế kỷ" với nữ văn sĩ Pháp gốc Nga Elsa Triolet. Ngoài những bài thơ mà nội dung ca tụng vợ toát lên ngay từ  tiêu đề: "Đôi mắt Elsa", "Tình yêu Elsa", "Bài ca Elsa", "Người điên của Elsa", "Elsa ngồi trước gương", ông còn có những câu phát biểu nổi tiếng về lòng biết ơn đối với bà. Gặp Elsa năm 31 tuổi, ông ví cuộc đời ông như một trái cây đã bị sâu ăn ba mươi năm một nửa, còn một nửa ba mươi năm nữa, ông trả cho Elsa để cắn ngập răng vào. Mối tình của Aragon với Elsa được ví như mối tình của cặp "Romeo và Juliette thời hiện đại".
Cặp "tình nhân thế kỷ" Elsa Triolet và Louis Aragon
Elsa Triolet chính là em vợ của thi hào Nga Mayakovsky. Có một thời, bà mê Mayakovsky như điếu đổ. Song câu chuyện cũng chỉ dừng ở đấy bởi khi biết chuyện, bố mẹ bà đã ra sức ngăn trở con gái. Cuối cùng, Elsa đã giới thiệu chàng thi sĩ của Cách mạng cho chị gái mình (lúc bấy giờ đã có gia đình nhưng cuộc sống vợ chồng của họ đang gặp trục trặc). Rốt cục, hai người đã bén duyên nhau và sau này, trong chúc thư của Mayakovsky mà người ta tìm thấy sau khi ông tự sát, có dòng chữ: "Gia đình tôi gồm có Lilia Brik, mẹ, các chị gái…". Lilia Brik chính là tên người chị gái của Elsa Triolet. 
Elsa đã gặp Aragon trong một cuộc họp mặt của các nhà thơ Pháp. Khi đó, Aragon bước vào tuổi 31, còn Elsa đã ở tuổi 32. Sau này, trong một hồi ký, Elsa nhớ lại cuộc gặp gỡ "thiên định" của mình: "Đó là ngày 6/11/1928, và niên đại của tôi bắt đầu từ ngày hôm ấy". Về phía Aragon, mãi sau này ông vẫn không sao quên được ấn tượng của lần gặp gỡ ban đầu với người đàn bà có gương mặt rất giống bức tượng Thần Vệ nữ ở Milo ấy. Và ông ghi lại tất cả cảm xúc ấy trong thơ: "Ngày gặp em mới thật có đời anh/ Em đã chặn lối điên cuồng thê thảm/ Em đã chỉ cho anh vùng tươi thắm/ Chỉ nảy mầm khi ý tốt gieo lên" và "Anh quả thật đã sinh từ môi ấy/ Cuộc đời anh khởi sự tự em đây".
Các nhà nghiên cứu thật không quá lời khi nhận định rằng, sau lần gặp gỡ đó, trong nhận thức và tình cảm của Aragon có nhiều biến chuyển rõ rệt. Từ một chủ soái của trường phái siêu thực, vậy mà chỉ một thời gian, ông đã chuyển hướng sáng tác, trở thành nhà thơ cộng sản cứng cỏi. Cũng từ đấy trở đi, hình ảnh Elsa luôn thường trực trong thơ Aragon. Ông nâng niu, chăm chút từng li từng tí những biểu hiện vẻ đẹp ở các góc độ của người mình cuồng si. Ông học tiếng Nga để hiểu người vợ yêu của mình "nói những chuyện gì" với những người đàn ông khác.
Thật ra, khi hai người đến với nhau, Aragon đã là một nhà văn có tên tuổi, trong khi sự nghiệp riêng của Elsa còn khá mờ nhạt. Đã vậy, bà từng trải qua một cuộc hôn nhân. Bởi vậy, đã có không ít lời gièm pha, cho rằng bà núp dưới bóng chồng để cầu danh lợi. Thậm chí, có thông tin ác ý còn cho rằng bà kết hôn với Aragon là để thực hiện một nhiệm vụ bí mật mà Nhà nước Xôviết giao phó, là để "thao túng" Aragon… Điều rất cảm động là, mặc dù những thông tin trên không phải Aragon không biết, song ông đã bỏ ngoài tai tất cả. Ông vẫn tiếp tục cho ra đời những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của nhan sắc và vẻ đẹp tâm hồn Elsa, trong đó có những bài được xem là kiệt tác, được đưa vào sách học. 
Một điều rất đặc biệt, trong hơn bốn mươi năm sống bên nhau (Elsa mất năm 1970), mặc dù cả hai người không có với nhau một mặt con, song ân tình họ đối với nhau vẫn vô cùng sâu nặng. Qua đó ta càng thêm hiểu, tại sao báo chí Pháp lại xếp vợ chồng họ vào danh sắc "những cặp tình nhân nổi tiếng" chứ không phải "những cặp vợ chồng nổi tiếng".
Sau khi Louis Aragon mất (năm 1982), ông được an táng bên cạnh mộ Elsa Triolet trong khu vườn ngoại ô của hai vợ chồng. Trên tấm bia mộ là dòng chữ trích từ một cuốn sách của Elsa: "Những người chết không có khả năng. Nhưng chúng ta hy vọng rằng những cuốn sách của chúng ta sẽ bảo vệ chúng ta".
Sẽ bảo vệ chúng ta". 
Người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam
Ở Việt Nam, thơ Aragon từng được dịch, giới thiệu bởi các nhà thơ lớn. Nhiều người đã biết, bài hát "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng" chính là bài hát do nhạc sĩ Phạm Tuyên phổ từ một bài thơ của Aragon (qua bản dịch của nhà thơ Tố Hữu). Thật ra, từ trước đấy rất lâu, thơ Aragon đã được nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam biết tới. Thời gian hoạt động tại Paris, Bác Hồ đã được tiếp cận với thơ Aragon và Người rất thích tác phẩm của ông. Sau này, năm 1946, khi Người sang thăm Pháp, đích thân ông bà Aragon đã đến chào và trao đổi với Người. Thật cảm động khi ta được biết, ngay từ tháng 2 năm 1930, khi tin tức về cuộc khởi nghĩa Yên Bái của chúng ta được truyền về Pháp, trong đó có các thông tin về việc đàn áp, hành hình các lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa, từ Paris, Aragon đã cho công bố trên tờ La Commune (Công xã) bài thơ có tên gọi "Yên Bái", trong đó có những câu: "Từ ngữ nào nhắc nhở rằng/ Không thể bịt mồm một dân tộc/ Không thể khuất phục dân tộc ấy/ Bằng lưỡi kiếm của đao phủ?/ Từ ngữ đó là: Yên Bái". Ở phần kết bài, tác giả kêu gọi "máu trả máu" và bày tỏ tình đoàn kết, sự ủng hộ cuộc đấu tranh chống ách đô hộ thực dân của nhân dân ta.
Được biết, hiện bài thơ nói trên của Aragon vẫn được lưu trên trang web của Đảng Cộng sản Pháp trong mục "tư liệu cộng sản".

Hoàng Ngọc Thọ
Nguồn: VNCA

No comments:

Post a Comment