Trong
các vua nhà Nguyễn, Tự Đức làm vua lâu nhất; lên ngôi vào năm 1848, thăng hà
vào năm 1883, tổng cộng 36 năm. Trong thời gian trị vì, Pháp xâm lăng Việt Nam,
loạn lạc xảy ra khắp nơi, trách nhiệm của nhà vua đối với lịch sử thật lớn lao.
Trước khi nhận những lời phê phán của lịch sử; vua Tự Đức đã tự trách mình qua
đạo dụ “ Tự Biếm” vào năm 1876
như sau:
“ Trẫm tuổi thơ được nối ngôi báu,
nhờ công tổ tiên bấy giờ quốc gia toàn thịnh. Việc nước việc đời, chưa từng
kinh nghiệm; không để ý đến lời răn “ lúc yên ổn phải nghĩ đến lúc nguy nan ,”
mãi đam mê theo thói vui chơi; cho đến nỗi trên thì trời trách phạt, dưới thì
dân oán hờn, ngoài thì ngoại bang giận dữ, trong thì không có kế hoạch tốt hay.
Cứ việc đến thì lo, nhưng không giải quyết được công việc. Miễn cưởng theo mưu
kế của bậc lão thần (1), bỏ đất đai và dân chúng 6 tỉnh Nam Kỳ, để cầu khỏi nạn
chiến tranh và yên xã tắc. Trên 200 năm khai sáng gìn giữ gian nan, bỏ trong
một sớm; chính là tội của tên tiểu tử này,kể sao cho xiết! Túng sử có lập được
nên công đức cũng không đủ chuộc được tội lỗi. Huống hồ Trẫm lại không công
không đức, chỉ trơ mặt trơ thân ngồi nhìn, lần lữa cho đến già yếu; tuy thiên
hạ không nỡ trách ta, nhưng lòng ta há lại không suy nghĩ .”
( 朕 冲
齡 阼, 憑
藉 前 庥,
國 家 全
盛 ,政 務
世 故, 未
嘗 留 意.
昧 居 安
慮 危 之
戒, 惟 眈
樂 之 從,
以 致 上
干 天 譴
,下 畜 民
怨, 外 招
鄰 怒, 内
乏 良 籌,
事 至 而
憂, 無 救
于 事. 勉
從 老 成
謀, 捐 此
南 圻 六
省 土 地
人 民, 以
息 兵 争,
以 安 天
下. 二 百
餘 年 創
守 艱 難,
棄 于 一
旦, 是 予
小 子 之
罪, 不 可
勝 言, 縱
有 何 功
德 亦 不
足 以 贖.
况 無 功
無 德 徒
靦 面 尸
位, 積 日
以 至 于
衰 老, 人
不 忍 斥,
予 豈 何
心 ). (2)
Qua lời tự chê trách khá thành khẩn
, rõ ràng nhà vua không có đủ khả năng để hoàn thành trọng trách trong giai
đọan khó khăn của lịch sử . Ði sâu hơn chúng ta hãy tìm hiểu những yếu tố hình
thành con ngừơi của nhà vua như : thể chất , tính tình , giáo dục , gia đình ,
để hiểu rõ tại sao nét hùng lược quả cảm cần thiết của vị vua anh hùng trong
thời loạn lại thiếu vắng trên con người này .
A
. Tiểu sử vua Tự Đức
Tự Ðức tên là Hồng Nhậm ( 3 ) con
vua Thiệu Trị, sinh ngày 25 tháng 8 năm Ký Sửu ( 22-9-1829 ) . Thiệu Trị có 64
người con, 29 Hoàng-tử, 35 Hoàng-nữ; nhà vua là con thứ hai, An-Phong-công Hồng
Bảo sinh trước nhưng là con vợ thứ. Mẹ là Từ Dụ Hoàng Thái-hậu, tên húy Phạm
Thị Hằng, quê quán tại huyện Tân-Hoà, tỉnh Gò-Công; con quan Thượng-thư bộ Lại
Phạm Ðăng Hưng. Bà Từ Dụ được tuyển vào cung năm 14 tuổi, một năm sau sinh Diên
Phúc Công-chúa, năm 19 tuổi sinh nhà vua.
Tháng giêng năm Thiệu trị thứ 3 (
1844 ) Hồng Nhậm được phong tước Phước-Tuy-công và ở phủ đệ riêng ; lúc này tuy
đã khôn lớn, nhưng Từ Dụ vẫn săn sóc lo lắng như hồi còn bé.
Tháng 10 năm Ðinh Mùi vua Thiệu Trị
mất, Hồng Nhậm được lên kế vị¸ lấy năm Mậu Thân ( 1848 ) làm năm Tự Ðức thứ
nhất. Trong bài " Thị Thần Công Dụ " nhà vua giải thích lý do chọn
hai chữ " Tự Ðức " làm niên hiệu là để tỏ lòng chân thành muốn nối
đức trạch của tổ tiên ( 4 ) . Nhà vua không có con, nên phải nuôi 3 ngừơi cháu
làm con nuôi: trưởng là Dục Ðức, thứ hai là Chánh Mông, thứ ba là Dưỡng Thiện .
Mô tả chân dung vua Tự Ðức, Tổng-đốc
Thân Trọng Huề viết như sau:
" Ngài hình dung như một người
nho sĩ, không cao không thấp, trạc người bậc trung; không gầy không béo, có hơi
gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài, cằm hơi nhỏ, trán rộng mà
thẳng , mũi cao mà tròn , hai con mắt tinh mà lành . Ngài hay chít cái khăn
vàng mà nhỏ và mặc áo vàng , đi dày vàng của bộ Nội Vụ đóng . Ngài không ưa
trang sức, mà cũng không cho các bà nội cung đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự
ăn mặc sạch sẽ làm đẹp. " ( 5 )
B . Thể chất vua Tự Đức
Căn cứ vào tài liệu để lại, được
biết thể chất vua Tự Ðức vốn bạc nhược ngay lúc mới sinh, năm lên 3 tuổi bị
bệnh tả nên càng thêm mất sức; nhà vua tâm sự :
" Ta thuở nhỏ vóc người gầy ốm
èo uột lắm. Hồi ta ba tuổi bị bệnh tả cả đêm; lúc đó có vú nuôi song mẹ
ta không bằng lòng, đuổi ra ngoài không cho làm vú nữa. Mỗi khi ta đi tả, hoặc
nữa đêm, hoặc hai phần đêm, mẹ ta thường chịu khó thức bồng đỡ luôn ( 6 )
Riêng trong Tự Đức Thánh Chế Văn Tam
Tập, nhà vua trình bày tỉ mĩ tình trạng sức khỏe như sau:
" Vốn bẩm sinh bạc nhược, xưa
nay chưa có ai khí chất yếu kém như vậy. Cho nên từ thuở ấu thơ, niên thiếu,
cho đến già lão luôn luôn lấy bệnh làm bạn bè, mượn thuốc làm bản mệnh, cơ hồ
chưa hề gián cách một ngày. Năm nay đã gần 50 tuổi, mà gân sức càng thấy mệt
mõi, ăn uống không tiêu, thường bị uất trệ, sắc mặt xám xanh, thịt da gầy guộc,
đầu nặng mắt hoa, nhìn ngó không được rõ ràng như trước, " ( 7 )
Tại đạo dụ khác, nhà vua phàn nàn
tình trạng sức khỏe suy yếu rất trầm trọng, như ngồi lâu chóng mặt, nói lắm hết
hơi:
" Trẫm thật lắm bệnh, lại ở
chốn thâm cung thấp khí nặng nề, nên ngồi lâu thì chóng mặt, nói nhiều thì hết
hơi, dù bụng muốn nói nhưng sức không cho phép. Ðiều này ai cûng rõ là không
phải mới xẩy ra, mà xưa nay vốn như thế. " ( 8 )
Nói tóm lại thể chất vua Tự Ðức vốn
yếu đuối ngay từ lúc mới sinh, rồi bị bệnh tật liên miên, không rời thuốc
thang. Lúc gần 50 tuổi thì sức khỏe hầu như kiệt quệ, bởi thế nhiều lúc nhà vua
tỏ ra tuyệt vọng, dùng những lời ai oán than vãn cho tình trạng sức khỏe của
mình. Nhà vua đã dùng nhiều giấy mực nói về bệnh tật; riêng trong " Tự
Ðức Thánh Chế Văn Tam Tập " chép hai đạo dụ cầu thầy thuốc giỏi,
và hai đạo dụ khác nội dung trách phạt các viên Thái-y ( 9 ) bất tài cùng trễ
nãi công việc. Dĩ nhiên tình trạng sức khoẻ yếu kém, ảnh hưởng rất nhiều đến sự
nghiệp chính trị của nhà vua.
C . Tính tình
1 . Tính đa cảm .
Các nhà khảo cứu truyện Kiều thường
cho rằng tác giả Nguyễn Du có một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nếu tìm hiểu các bài
thơ chữ Hán của tác giả, người đọc bắt gặp nhiều lời than vãn về bệnh tật, gầy
yếu, tóc sớm bạc vv.. ..Phải chăng tính đa sầu đa cảm thường dễ có trong một cơ
thể bệnh hoạn.
Ðiều nhận xét trên tuy chưa hẳn là
một định luật song ta có thể thấy được ở một số người khác , trong đó có vua Tự
Ðức. Thông thường các bậc gánh vác việc lớn thường phải kiềm chế tình cảm; Tự
Ðức là một ông vua được đào luyện trong khuôn khổ Nho giáo, lại càng phải thấm
nhuần lẽ đó. Tuy nhiên với sẵn tính trời đa sầu đa cảm, nên nhiều khi nhà vua
không dằn được nỗi lòng, bộc lô những cảm xúc riêng, thường không có lợi về
việc chính trị. Như trong " Tự Biếm Dụ " tác giä đã trình bày về lỗi
lầm của mình qua câu :
" Ngoài thì ngọai bang giận dữ,
trong thì không có kế hoạch tốt hay, cứ viêc đến thì lo, nhưng không giải quyết
được sự việc . "
Người đồng thời đọc những lời trên
chắc không khỏi thương hại nhà vua, nhưng về phương diện lý trí họ không thể
đặt trọn vẹn niềm tin về khả năng lãnh đạo yếu kém như vậy, lại có thể
lèo lái con thuyền quốc gia qua cơn bão tố. Tính đa cảm của vua Tự Ðức còn được
bộc lộ một cách rõ nét hơn qua bài văn tế người em trai là Kiến Thụy
Quận-vương, tại đây tác giả hầu như đã trút bỏ vai trò quân vương, với lời lẽ
thống thiết ôn lại những kỹ niệm từ thuở ấu thơ, cho đến lúc cả hai anh em cùng
trưởng thành:
Tạm dịch
Văn tế em thứ tư Kiến Thụy
Quận-vương (10 )
(Tứ tế tứ đệ Kiến Thụy Quận-vương
văn )
Ô hô ! Em mến ,
Ðỉnh ngộ anh hiền .
Tuy do tú khí , ( 11 )
Cũng nhờ tiên thiên . ( 12 )
Nhớ ngày ra gác , ( 13 )
Thơ dại biết gì .
Em chưa học đối,
Anh mới tập thi . ( 14 )
Lo gì , muốn gì ,
Nào hay ý vị .
Gõ vãi , đá cầu ,
Buồn không suy nghĩ . ( 15 )
Bắc tuần hộ giá ,
Phụng mệnh đồng hành .
Thành Ðông cư trú ,
Phủ đệ song song .
Hầu thăm giờ rảnh ,
Vui chuyện quá trung ( trưa ) .
Nhạn không lià bạn ,
Thương mến một lòng .
Trời đất khiến xui ,
Tình cờ vô ý .
Ðùa dỡn bên nhau ,
Giờ đâu còn hý ! ( 16 )
Có lẽ Tự Ðức nỗi tiếng là vị vua hay
chữ, một phần lớn là nhờ ở tính đa cảm, giúp tác giả tìm được những tứ mới và
truyền được niềm cảm xúc sâu đậm của mình qua tác phẩm .
2 . Thiếu Cương Quyết
Xét về phương diện lịch sử, ta nhận
thấy vua Tự Ðức thiếu tính quyết đoán nên đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội. Ðiển hình
năm 1859, quân Pháp sau hai lần tấn công Ðà-Nẵng không đem lại kết quả như ý,
lại bị bệnh thời khí chết hại rất nhiều, tướng Rigault de Genouilly đã đưa thư
xin giảng hoà với ta và đòi hỏi các điều kiện như tự do truyền đạo, tự do
thương mãi và nhường cho Pháp một chỗ đóng quân để bảo đảm hoà ước. Tự Ðức mật
dụ hỏi các quan, kẻ thì bàn chiến, người thì bàn hoà không có quyết định dứt
khoát. Xét về cục diện lúc này, địch gặp nhiều khó khăn, nếu trên dưới một lòng
quyết chiến thì có thể đánh bật quân xâm lăng ra khỏi đất nước .
Kíp đến khi đồn Kỳ-Hòa thất thủ,
Nguyễn Tri Phương bị thương, tình hình đang hồi nghiêng ngữa, nói chuyện hoà
lúc này lại càng làm giải đãi lòng quân và đương nhiên phải gánh chịu một hoà
ước bất bình đẳng. Nhưng Tự Ðức đã tỏ ra bối rối thiếu cương quyết, lần lượt sử
dụng các nhân vật chủ hoà như Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp;
khiến cho sáu tỉnh Nam-Kỳ bị mất. Việc này dẫn đến một tiền lệ xấu là mỗi lần
nghị hoà mỗi lần thiệt thòi về quyền lơi, và tinh thần quân sĩ sa sút đến độ
không đánh mà tan. Thiết nghĩ Tự Ðức là người đã từng nghiên cứu nhiều về quốc
sử ( 17 ) há lại không biết rằng các bậc anh hùng nước ta thành công trong việc
chống xâm lăng đều dựa vào cái thế nhân dân. Xét về cục chiến tranh chống Pháp,
Tự Ðức chưa hề sử dụng lực lượng bất tận quí giá đó, lại quá vội vàng chấp nhận
những điều kiện trái với nguyện vọng cuả dân, khiến cho đồng bào trong nước đều
phẫn nộ.
Lại đến lúc sắp mất, di chiếu đặt
Hoàng-tử Ưng Chân lên nối ngôi; theo lẽ thường vua có bổn phận phải giúp cho
Tự-quân ( 18 ) có đầy đủ uy tín để lãnh đạo quốc gia, nhất là trong hoàn cänh
khó khăn đương thời. Nhưng vì tính chần chừ thiếu cương quyết nên Tự Ðức đã để
lại lời di chiếu sau đây :
" Tính vốn hiếu dâm lại quá bất
thiện, vị tất gánh nỗi đại sự ( Tính phả hiếu dâm diệc đại bất thiện, vị tất
năng đương đại sự )
Nếu quả không đương nỗi đại sự , tại
sao lại giao trọng trách ? Lời chiếu thật thà tai hại này dẫn đường cho các
quyền thần làm việc phế lập vua ba lần trong bốn tháng ( Tứ nguyệt tam vương
). Qua những chứng liệu vừa trình bày, nếu bảo rằng tính thiếu cương quyết của
nhà vua là một nguyên nhân quan trọng làm hư hỏng đại cuộc cũng không phải là
quá đáng.
3 . Tính Ðam Mê Trí Thức
Tổng-đốc Thân Trọng Huề , từng được
thấy dung nhan vua Tự Ðức, đã viết về nhà vua như sau:
" Nay xem nguyên bản trong Các
, thì thấy có nhiều tờ phiếu Ngài phê dài hơn các quan tâu .. ..chữ đã tốt ,
văn lại hay , ai cũng kính cái tài của Ngài.
Ngài vốn là người hiếu học, đêm nào
Ngài cûng xem sách đến khuya. Có 3 tập Ngự Chế thi văn của Ngài đã in thành bản
. Ngài lại làm sách chữ Nôm để dạy dân cho dễ hiểu , như sách Thập Ðiều , Tự
Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca " ( 19 )
Nhận xét trên phù hợp với lời tâm sự
của chính nhà vua, qua phần mở đầu bài tựa cuốn " Ngự Chế Thi Tập " :
" Trong những giờ rảnh việc
chính trị, chỉ có lạc thú duy nhất là đọc sách. Một mình cần cù, lấy sách giải
sách; lĩnh hội được thì sung sướng vô cùng, nhưng cũng chưa dám vội tin, nếu chưa hiểu được thì cho là khuyết
nghi để đợi bậc cao minh giảng giãi. Người xưa với ta như cùng đối mặt trò
chuyện với nhau trong một nhà " ( 20 )
Dưới thời Tự Ðức thực lắm việc, thời
cuộc biến chuyển dồn dập như mang hia vạn dặm, trách nhiệm đứng quân vương thực
nặng nề, nhưng nhà vua vẫn cố dành những phút rãnh rỗi đến với sách vở, lại lưu
tâm đến công việc trước tác, phải nói vua là người đam mê trí thức đến tột bực.
Công trình của Tự Ðức về sáng tác, sưu tầm, phê bình, dịch thuật rất lớn; gồm
những tác phẩm sau đây :
1 . Tự học giải nghĩa ca .
2 . Khâm định đối sách chuẩn thăng .
3 . Luận ngữ thích nghĩa ca .
4 . Ngự chế Việt sử tổng vịnh .
5 . Ngự chế thi sơ tập .
6 . Ngự chế thi nhị tập .
7 . Ngự chế thi tam tập .
8 . Tự ÐứcThánh chế văn sơ tập .
9 . Tự Ðức Thánh chế văn nhị tập .
10 . Tự Ðức Thánh chế văn tam tập .
11 . Từ Huấn lục .
12. Phê bình lịch sử trong bộ
sử " Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục "
13 . Dịch " Huấn Ðịch Thập Ðiều
" của vua Minh Mệnh .
D . Qúa Trình Học Tập
Qua bài tựa cuốn " Ngự Chế Thi
Sơ Tập ", Tự Ðức cho biết về quá trình học tập như sau :
" Thời còn làm Hoàng-tôn ( dướI
13 tửôi ) , các thầy được gặp chẳng qua một vài vị Tú-tài già, các sách giáo
khoa cũng chỉ là những loại vở lòng Tiểu học, chuyên về âm chữ, phân đọan , đặt
câu ; phép dạy dỗ theo tập quán, thực không hợp cách . " ( 21 )
Ðến khi lên làm Hoàng-tử ( từ 13 đến
19 tuổi ) nhà vua mới được thọ giáo với những thầy giỏi hơn và sự học tập cũng
có phần tiến bộ hơn trước. Tuy nhiên sự học trong thời gian này cũng không gặt
hái được kết quả đúng mức vì những lý do sau đây :
- Chức học-quan bổng lộc rất bạc bẽo
, nên những nhà Nho nỗi tiếng không muốn đảm nhận .
- Các thầy dạy Hoàng-tử thường sợ
phiền lụy , nên không muốn nghiêm khắc với những cậu học trò có nhiều quyền thế
, nên sự học của các Hoàng-tử có phần trể nãi .
Cũng trong " Ngự Chế Thi Sơ Tập
Tự Tự " , Tự Ðức tâm sự như sau :
" Kíp đến khi làm Hoàng-tử,
chỉ trong vòng 7 năm trời mới được thầy dạy có phần khá hơn. Các sách Thi, Thư,
Tứ Tử cũng chưa học trọn; còn kinh, sử, tử, tập thì hoàn toàn chưa được thiệp
liệp, huống chi văn thơ của các nhà khác ! Cũng vì chức Học-quan bạc bẽo
lộc ít, các bậc đại khoa cự Nho chẳng ai muốn lãnh. Tuy chức này tiếng là do
triều đình tuyển nhưng thực tế vẫn bị coi thường, nên không đề cử những người
hữu dụng vào chức vô dụng đó !
Hơn nữa phàm con người tính tuổi
trẻ, thường lấy sự phóng túng làm vui, bị câu thúc làm buồn, chỉ muốn chơi đùa
cho hết năm tháng nào biết đâu tuổi già sồng sộc sắp đến và sự học có ích như
thế nào ? Về phần thầy cũng mong cho trò được tiến thoái tự do, nóng lạnh không
liên quan đến mình, thì còn rỗi công đâu mà chỉ trích ! Như vậy là thầy trò
cùng dễ dãi cho nhau mà không biết đã làm hại nhau vậy ! "
Qua tài liệu đã đề cập, được biết
thời gian vua Tự Ðức trực tiếp thụ huấn các bậc thầy tương đối ngắn ngủi và sở
học cũng chưa được trau dồi đúng mức. Kíp đến khi lên ngôi vua, có những phút
cảm hứng muốn sáng tác, nhưng vì công hàm dưỡng chưa sâu nên đã gây cản trở
trong sự diễn tả ý tưởng. Lúc này nhà vua mới nhận ra sở đỏan của mình và bắt
tay vào công việc tự học; nhờ tinh thần hiếu học và lòng say mê văn chương nên
đã gặt hái được thành công vẽ vang.
Ðoạn văn trích dẫn sau đây nói lên
tính cần cù , đam mê trí thức của nhà vua :
" Không may chưa đến tuổi gia
quan ( 20 tuổi ) đã bỏ học để gánh vác việc khó khăn. Lúc đó mới tập làm thơ
luật, ý tuy đã có nhưng bút diễn không ra lời, vì vậy mới quyết chí vào việc
học; trong giờ rảnh việc chính trị, chỉ có lạc thú duy nhất là đọc sách. Một
mình cần cù, lấy sách giải sách; lĩnh hội được thì sung sướng vô cùng, nhưng
cũng chưa dám vội tin; chưa hiểu được thì cho là khuyết nghi, đợi chờ người cao
minh giảng giãi. Người xưa với ta cùng đối mặt trò chuyện với nhau trong một
nhà, như kẻ lạc đường có xe chỉ nam dẫn lối. Rồi trình độ học vấn cứ từ từ mà
tiến, ý đã có thì lời có thể diễn tả trọn ý, việc suy ra thì lời có thể ứng với
việc, ý trong chưa hết thì văn ngoài chưa dứt ; lúc đầu bế tắc, kế đó lĩnh hội
được sơ sài và cuối cùng tụ lại bất giác đã được khá nhiều.( 21 )
Công bằng mà xét, Tự Ðức có một cơ
duyên đặc biệt trên bước đường tự học. Chung quanh nhà vua, đám quần thần như
Trương Ðăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tư Giản đều là những nhà Nho hay chữ.
Ngoài ra nhà vua có ba vị Hoàng-thúc Tùng-thiện-vương, Tuy-lý-vương,
Tương-an-quận-vương đều là thi sĩ nỗi danh đương thời .
Ưng Trình qua cuốn " Tùng-thiện-vương
" kể lại như sau :
Tự Ðức triệu Tùng-thiện-vương vào
cung để yêu cầu dạy làm thơ. Vương tâu vua xin đừng làm thơ, vì nghề trị nước
trách nhiệm nặng nề tâm không được nhàn, nên từ xưa các vị chí tôn dẩu làm thơ
thì chỉ tiêu khiển nhất thời mà thôi ; tuy nhiên vì vua thích nên đành phải
dạy. Mỗi khi tiếp Thị-vệ đệ tráp Ngự -chế -thi đến, Tùng-thiện-vương bèn mặc áo
rộng, tra khăn đen, tự tay mở Hoàng phong ra rồi viết mật sớ, tâu nên đổi chữ
nào và vì cớ gì phải đổi.
Ngoài tấm lòng yêu văn chương nhiệt
thành, nhà vua còn có thêm một khả năng đặc biệt hiếm thấy ở các nhà Nho khác,
đó là phương pháp nghiên cứu và hệ thống hoá vấn đề. Ví như khi soạn cuốn sách
giáo khoa " Tự Ðức Thánh Chế Tự Học Giải Nghĩa Ca " nhà vua đã dụng
công chia ngữ vựng chữ Hán ra thành môn loại, với lối xếp đặt khoa học như vậy
giúp cho người đọc dễ lãnh hội :
1 . Kham dư loại (địa dư )
2 . Nhân sự loại ( con người )
3 . Chính hoá lọai ( chính trị ,
giáo dục )
4 . Khí dụng loại (đồ dùng )
5 . Thảo mộc loại ( cây cỏ )
6 . Cầm thú loại ( thú vật , gia súc
)
7 . Trùng ngư loại ( tôm cá , côn
trùng )
Nếu so sánh cuốn sách này với cuốn
sách vở lòng chữ Hán thông dụng " Tam Thiên Tự " ; phải công
nhận sách của Tự Ðức công phu hơn và cũng có phương pháp hơn. Tam Thiên Tự
tuy có vần , nhưng liệt kê ngữ vựng một cách tùy tiện, thiếu sư phạm. Ngược lại
tác phẩm " Tự Ðức Thánh Chế Tự Học Giải Nghĩa Ca " được hệ
thống hóa bằng cách phân loại và đặc biệt sử dụng thơ Lục Bát là thể thơ quen
thuộc với người Việt-Nam nên dễ đọc dễ nhớ. Ðể tiện việc so sánh, xin trích dẫn
một vài câu mở đầu của hai tác phẩm :
Tam Thiên Tự
Thiên trời , địa đất ;
Cử cất , tồn còn .
Tử con , tôn cháu ,
Lục sáu , tam ba .
Tự Học Giải Nghĩa Ca
Thiên trời , địa đất , vị ngôi ,
Phú che , tái chở , lưu trôi , mãn
đầy .
Cao cao , bác rộng , hậu dày ,
Thần mai , mộ tối , chuyển xây , di
dời .
Tổng quan về học vấn và sự nghiệp
văn chương, phải nói tài bộ của vua Tự Ðức đã đi đến chỗ thăng đường nhập thất
( 22 ) vượt xa sự nghiệp chính trị của nhà vua .
E Ảnh Hưởng Của Gia Đình Đối Với Vua
Tự Đức
1.Ảnh hưởng của vua cha Thiệu Trị
Dưới thời quân chủ, các Hoàng-tử và
vua cha có sự cách biệt rất nghiêm khắc. Dù là con các Hoàng-tử vẫn phải luôn
luôn giữ đạo thần tử; khi có chỉ tuyên triệu mới được bệ kiến, chứ không được
tự tiện ra vào nơi cung cấm. Hơn nữa lúc trưởng thành các Hoàng-tử đều có phủ
đệ riêng, nên sự liên lạc giửa cha con lại càng bị ngăn cách.
Riêng vua Thiệu Trị rất đông con (
64 người ) lại có lắm vợ, tình cảm của nhà vua được ban phát khắp cả tam cung
lục viện, thì đâu còn dồi dào để chú ý đến cậu bé Hồng Nhậm gầy yếu bệnh tật.
Thực vậy, ngoài bộ " Ðại Nam
Thực Lục " là sử của Triều-đình, có nói đến sự lưu ý của Thiệu Trị đối
vớI Tự Ðức, không có một tài liệu nào khác đề cập một cách rõ nét về tình cảm
giữa hai cha con nhà vua. Phần mở đầu " Ðại-Nam Thực Lục Ðệ Tứ Kỷ
" ghi như sau:
" Tháng giêng năm Thiệu Trị thứ
ba được phong Phước-tuy-công. An-phong-công Hồng Bảo tuy lớn tuổi hơn nhưng
thuộc dòng thứ, lại ít học ham chơi ; riêng nhà vua tính tình nhân hậu, thông
minh lại chăm học; được Hiến Tổ Chương Hoàng-đế ( Thiệu trị ) cho là giống mình
nên đặc biệt thương mến chú ý. Mấy lần phụng sắc chỉ vào chầu, dạy cho đạo làm
vua cùng sự vất vả của nhân dân trong việc canh tác "
Qua đọan văn trích dẫn, Sử-quan đã
dùng ngòi bút nhà nghề khéo léo ca tụng vua Tự Ðức, chê Hồng Bảo, để gián tiếp
biện minh cho việc phế trưởng lập thứ. Sử liệu này không giúp cho người khảo
cứu thấy được ảnh hưởng thực sự của vua Thiệu Trị đối với Tự Ðức; hay nói một
cách khác ảnh hưởng của Thiệu Trị đối với Tự Ðức nếu có cũng mờ nhạt , không
thể sánh với tình cha con đặm đà trong dân chúng.
2 . Ảnh hưởng của Từ Dụ
Hoàng-thái-hậu đối với vua Tự Ðức
Qua các tác phẩm của Tự Ðức, được
biết nhà vua nhắc đến mẹ nhiều hơn cha; đặc biệt trong bài biểu tạ ơn mẹ nhân
dịp Ngũ Tuần Ðại Khánh, Tự Ðức hết sức tán tụng mẹ, coi mẹ là trời, là thầy :
" Nuôi con ăn mẹ vậy, dạy con
học cũng mẹ vậy; mẹ là thầy vậy.
Sinh con ra mẹ vậy, hiểu lòng con
cũng mẹ vậy, mẹ là trời vậy
. ( 23 )
Những sự kiện trên báo cho ta biết
rằng ảnh hưởng của Từ Dụ đối với Tự Ðức thực mãnh liệt; bởi vậy muốn tìm hiểu
về Tự Ðức không thể không xét kỹ về Từ Dụ Hoàng-thái-hậu.
Căn cứ vào sử liệu, được biết Từ Dụ
không phải là người mẹ tầm thường; bà là một nhân vật thông minh khôn ngoan và
có cơ tâm rõ rệt. Ðời bà đã thực hiện được những ý nguyện sau đây:
- Chiếm được lòng sủng ái của vua
Thiệu Trị .
- Huấn luyện cho Tự Ðức chỉ biết có
mẹ .
- Vận dụng cho con trai lên ngôi vua
.
- Gián tiếp tham dự vào việc chính
trị .
a . Chiếm được lòng sủng ái của vua
Thiệu Trị
Từ Dụ Hoàng-thái-Hậu nhủ danh là
Phạm Thị Hằng, được tuyển vào cung năm 14 tuổi để hầu vua Thiệu Trị. Dịp này,
có hai người con gái miền Nam được tuyển vào cung cùng một lượt, bà và một cô
gái khác, ái nữ của Quận-công Nguyễn Văn Nhân. Theo lệ triều Nguyễn, ngôi thứ
của cung phi lúc mới nhập cung cao hay thấp căn cứ vào chức tước của người cha.
Vì tước Quận-công lớn hơn chức Thượng-thư của thân phụ bà; nên ngôi thứ của con
gái quan Quận-công cao hơn bà. Sự kiện trên chứng tỏ rằng lúc mới vào cung hầu
Thái-tử Miên Tông, địa vị của bà còn thua sút những người khác.
Nhưng nhờ tài khéo léo chiều chuộng
nhà vua, ngôi thứ của bà trong cung thăng rất mau: năm Thiệu Trị thứ 3 ( 1843 )
được phong chức Thành-phi, năm Thiệu Trị thứ 6 ( 1846 ) được phong làm Quí-phi,
địa vị tối cao đứng đầu cả sáu cung. Bà được sủng ái đến nỗi khi được tuyên
triệu vào hầu, nhà vua chỉ gọi là " Phi " chứ không bao giờ kêu tên.
Tiến xa hơn một bậc, khi Thiệu Trị
ngự triều ỏ điện Khâm-Văn, sai bà ngồi sau vách để nghe các quan tâu và xem vua
phán có rõ ràng hay không:
" Vua thường ngự triều tại điện
Khâm-Văn, sai Lênh-bà ngồi sau vách để nghe các quan tâu và vua ban huấn thị có
được rõ ràng chăng . " ( 24 )
Qua các sử liệu vừa trình bày, được
biết Từ Dụ xuất thân từ một cung nhân tầm thường, đã vượt lên hàng Quí-phi, coi
sóc cả sáu cung, lại được vua ban cho đặc ân buông rèm thính chính. Có được địa
vị như vậy, hoàn toàn do sự khôn ngoan thông minh của bà tạo nên, và địa vị này
đã giúp rất nhiều trong việc tạo dựng tương lai cho con bà.
b. Huấn luyện Tự Ðức chỉ biết có mẹ
Qua phần thể chất vua Tự Ðức, được
biết thuở nhỏ nhà vua ốm đau bệnh tật liên miên và được Từ Dụ săn sóc suốt cả
ngày đêm. Ðối với bà mẹ Việt-Nam thương con, thì việc săn sóc con cái không lấy
gì làm lạ ; nhưng điều đáng lưu ý hơn là lời tâm sự sau đây của vua Tự Ðức :
" Hồi ta ba tuổi, bị bệnh đi tả
cả đêm. Khi đó có vú nuôi song mẹ ta không bằng lòng, đuổi ra ngoài không cho
làm vú nữa. Khi đi tả , hoặc nửa đêm hoặc hai phần đêm, mẹ ta thường chịu khó
thức bồng đỡ luôn. Ngày sau ta khôn lớn, được phong Công tước ra ở tư các ( 25
), mẹ ta còn cấm người vú tới lui. Đến khi ta lên ngôi, ta xin phép mẹ ta cho
người vú ấy làm nữ quan. " ( 26 )
Sử liệu trên cho biết rằng
thuở nhỏ Tự Ðức có một vú nuôi mà nhà vua rất thương yêu và cũng vì sự thương
yêu đó nên Từ Dụ không bằng lòng, bèn đuổi bà vú đi; rồi khi nhà vua tuổi lớn
ra ở tư các, bà vú đến thăm cũng bị Từ Dũ cấm cửa không cho tiếp xúc.
Phân tách kỹ hơn ta có thể quả quyết rằng Từ Dũ đã ghen với cả tôi tớ; bà không
muốn con trai mình san sẽ tình cảm cho bất cứ ai và muốn rằng đối với
con, mẹ là tất cả !
Về phương diện này Từ Dụ cũng đã
thành công một cách vẽ vang, vì bà đã uốn nắn vua Tự Ðức đúng như lòng mong
muốn. Thực vậy, Tự Ðức quả là người con chí hiếu. Ðạo hiếu của nhà vua được sử
sách ghi lại như: ngày chẵn hầu cung Từ Dụ, ngày lẽ ngự triều; hoặc sọan "
Từ Huấn Lục " ghi lời mẹ dạy vv.. ..Riêng sách " Từ Dụ Hoàng
Thái-hậu truyện " trình bày những chi tiết như sau :
" Bản tánh đức vua phụng sự bà
chí hiếu lắm. Bà thường khi muốn nghe đọc sử, vua mỗi việc mỗi thừa thuận theo
ý bà, chẳng có khi nào dám trái nhan sắc; chừng nào bà hết muốn nghe, bà dạy
thôi đọc vua mới thôi, dầu mỏi cách nào đi nữa vua cũng cam chịu. Chẳng những
việc đọc sử mà thôi, bất cứ là chuyện chi nhà vua cũng đều nhất nhất thừa hoan
theo ý bà . " (27 )
Với sử liệu vừa trình bày, cùng liên
tưởng đến vận nước khó khån, bổn phận làm vua lúc bấy giờ thực hết sức nặng nề;
người xưa thường khuyên rằng " vì việc công nên quên việc tư " (
công nhi vong tư ) , Tự Ðức lại để quá nhiều thì giờ săn sóc hầu hạ mẹ, chữ
hiếu của nhà vua xét ra có phần mù quáng .
c . Vận động cho con trai lên ngôi
báu
Việc phế trưởng lập thứ sau khi
Thiệu Trị mất, là một việc làm bất thường gây sự kinh ngạc đối với dư luận
đương thời . Theo lẽ thường tình, Hoàng-tử Hồng Bảo con lớn vua Thiệu Trị lên
nối ngôi , nhưng khi di chiếu tuyên đọc tại điện Cần-Chánh thì không có tên
Hồng Bảo , thay vào đó là Hồng Nhậm con Từ Dụ Hoàng Thái-hậu được lên làm vua
(tức Tự Ðức ) . Tiếp tục nghi lễ Hồng Nhậm khóc lạy lãnh mạng ; trong khi đó Hồng
Bảo phẫn uất thổ huyết hơn một đấu , nằm ngã vật giữa điện đình ( 28 ) . Có
nhiều sự nghi ngờ về biến cố lịch sử này; phải chăng tờ chiếu bị tráo đổi ? Từ
Dụ Hoàng-thái-hậu có thực sự nhúng tay vào việc vận động cho Hồng-Nhậm lên ngôi
không ?
Dĩ nhiên các bộ sử của triều Nguyễn
đều phủ nhận việc làm này và chê hạnh kiểm Hồng Bảo, cùng đề cao vua Tự Ðức
vv.. ..Tuy nhiên rãi rác đó đây qua thư tịch, người khảo cứu có thể bắt gặp một
vài dấu vết tình cờ, gián tiếp trả lời câu hỏi nêu trên .
Bộ sử " Ðại-Nam Chính Biên
Liệt Truyện " kể lại về giấc mộng của Từ Dụ như sau :
" Một hôm lệnh-bà nằm mộng thấy
thần nhân mặc áo rộng đai to, đầu bạc mày trắng, cầm một đạo sắc bằng giấy vàng
chữ đỏ trên có dấu ấn tỷ và một xâu chuỗi minh châu trao cho lệnh-bà và bảo :
" Xem đó sau sẽ hiệu nghiệm " . Lệnh-bà nhận lấy rồi có thai, sinh ra
vua Tự Ðức đúng như lời trong mộng . "
Khó biết được giấc mộng có thực hay
không, nhưng điều chắc chắn là người đầu tiên loan báo giấc mộng này , không ai
khác hơn là bà Từ Dũ . Thiết nghĩ bà là ái nữ quan Thượng-thư bộ Lại ,
chắc phải hấp thụ một nền giáo dục nghiêm khắc , quyết không thể khinh suất
thốt ra lời thiếu khiêm tốn nhắm loan truyền những dự triệu Ðế Vương, trong khi
Hồng Nhậm chỉ là con thứ ; vì như vậy có thể mang tội . Vậy đây chỉ có thể là
một dự mưu , nhắm mục đích thần thánh hoá Hoàng-tử Hồng Nhậm để chuẩn bị tranh
chiếc ngai vàng .
Hơn nữa bà là người có cơ tâm, lại
có dịp buông rèm thính chính; chắc phải có thừa thông minh nhận được vị
Đại-thần nào có uy tín với vua để tìm cách kết thân. Ngược lại , các quan
Đại-thần ắt cũng nể sợ muốn kết bè đảng với một nữ nhân vật được vua tin cậy
, luôn luôn có mặt sau hậu trường chính trị . Mặt khác Từ Dũ rất được vua
sủng ái, giửa bà và vua là một cặp vợ chồng tâm đầu ý hợp , chắc chắn có những
đêm trường tâm sự trong chốn khuê phòng, đó là những cuộc vận động hữu hiệu
nhất .
Với những sự kiện vừa trình bày, có
thể kết luận rằng bà là nhân vật chủ chốt trong việc vận động cho Hoàng-tử Hồng
Nhậm lên ngôi báu .
d. Gián tiếp can dự vào việc chính
trị
Qua bài Tụng dâng lên mẹ nhân dịp
" Thánh thọ lục tuần đại khánh " ( 29 ) Tự Ðức viết :
" Việc quốc kế dân sinh ,
Hỏi thăm để vui vẻ nhận điều tốt .
Nhưng mẹ không can dự vào việc triều
chính ,
Phép nhà giữ cẩn thận nghiêm trang .
" ( 30 )
Ðem đối chiếu đọan văn trên với
những điều đã tìm hiểu được về Từ Dụ Hoàng-thái-hậu, ta nhận thấy Tự Ðức viết
những lời trên nhắm mục đích biện minh cho mẹ ; chứ con người đầy cơ tâm và
thông minh như bà, không thể hỏi việc chính trị với lý do giản dị là để biết
điều tốt , mà không có ý kiến phê phán . Và ý kiến của Thái-hậu , người được
vua coi là trời , là thầy, ắt phải là một quyết định. Vậy thì việc Từ Dụ gián
tiếp tham dự vào việc chính trị là một điều hiển nhiên không thể chối cãi được .
Thực ra điều này không những chỉ xảy
ra dưới thời Tự Ðức, mà đã có trước đó dưới thời Thiệu Trị, và sau đó kể từ khi
Tự Ðức thăng hà cho đến khi Thành Thái lên ngôi .
Như trên đã đề cập, dưới thời Thiệu
Trị khi vua ngự triều, Từ Dụ được ngồi sau vách để nghe các quan tâu và vua ban
lệnh có rõ ràng hay không. Dĩ nhiên lúc trình bày lại cho vua nghe , Từ Dụ
không thể làm công việc đơn giản của chiếc máy ghi âm, và chắc rằng bà đã chứng
tỏ sự thông minh quán xuyến của mình để được vua yêu bằng những lời phân tách
nhận định vấn đề, đó là giai đọan đầu tham dự vào việc chính trị. Ðến khi lòng
tin của đấng quân-vương đã được củng cố, Từ Dụ chắc đã nói lên những lời có lợi
cho con bà, vây cánh của bà và ngược lại vô hiệu hoá ảnh hưởng của phe Hồng
Bảo. Lịch sử ghi nhận rằng phe Từ Dụ đã chiến thắng vẽ vang trong cuộc chạy đua
giành giật ngôi báu ; ngược lại đối thủ của con bà là Hoàng-tử Hồng Bảo đã phẫn
uất thổ huyết hơn một đấu, nằm bất tỉnh giửa điện Cần-Chánh ngay trong buổi
tuyên đọc di chiếu .
Kíp đến khi Tự Ðức lên ngôi, một
phần vì thương con yếu đuối nhu nhược ; một phần vì kẻ thù của mẹ con bà là
Hồng Bảo vẫn còn là mối đe dọa , nên bà lại càng lưu ý vào việc chính trị và
cuối cùng đã loại được Hồng Bảo. Sự việc xảy ra sau khi Tự Ðức lên ngôi, Hồng Bảo
âm mưu với một số tín đồ Thiên-Chúa giáo để tìm cách dành lại ngôi báu ( 31 ) .
Cuối tháng giêng năm 1851 , ông bị bắt lúc sửa soạn đáp tàu sang Âu-Châu, sau
đó được vua Tự Ðức tha cùng hứa lo cho ông được sung túc , nhận con ông làm con
nuôi và ban cho 100 nén bạc và 1 nén vàng . Sau khi tha ông lại tiếp tục dự mưu
, cho các đồng đảng ra ngoài để tìm ngọai viện . Việc phát giác , triều đình
kết tội lăng trì , nhưng Tự Ðức giảm xuống chung thân, rồi trong ngục thất ông
đã chết bằng giây thắt cổ ( 32 ) ; ngoài ra các con của ông đều bi giam và đổi
sang họ Ðinh là họ của mẹ. Tiếp đến cuộc phản nghịch của Ðoàn Trưng, âm mưu lập
con trưởng của Hồng Bảo là Ðinh Ðạo bị thất bại, cả gia đình Hồng Bảo gồm tám
người đều bị xử thắt cổ .
Sách " Từ Dụ Hoàng-thái-hậu
truyện " còn cung cấp thêm chứng liệu sau đây về việc vua Tự Ðức tỏ vẻ hối
hận về vụ Hồng Bảo, lúc đọc sử Tàu cho mẹ nghe :
" Vua đọc đến đọan em vua Hán
Văn đế là Hoài-nam-vương Trường An làm phản bị phát giác. Hán Văn-đế triệu em
về kinh đô Trường-An tha tội, rồi đày qua đất Thục. Dọc đường Hòai-nam-vương
nghĩ giận mình lầm lỗi rủi ro, lại buồn vì nỗi có ông anh làm vua mà không dung
được một thằng em , liền nhịn đói mà chết. Hán Văn đế nghe tin xót thương khóc
lóc thái quá. Nhân dân lúc bấy giờ có câu hát rằng :
Một thước vải còn có thể may mặc
chung với nhau .
Một đấu thóc còn có thể ăn chung với
nhau .
Anh em hai người không dung nhau
được ! "
Lệnh-bà dạy rằng :
- Người bạo nghịch như vậy mà trong
lòng không biết tự oán trách mình , cững
đáng làm lạ .
Vua tâu :
- Việc của anh con cûng thế , con
mỗi mỗi không an tâm , con lấy làm buồn lắm !
Lệnh-bà dạy :
- Phép nước không thể bỏ được ; việc
ân nghĩa giửa hai anh em lẽ đâu lại riêng tư . Lời hát quê của nhân dân đâu đủ
làm phiền lòng vì việc anh em không dung nhau . Trong thân tộc chớ để trọng
quyền , vì e rằng khó chế . Người đời khi lâm hồi biến , biết sao vuông tròn
được ! " ( 33 )
Qua sử liệu vừa trình bày, có thể
suy luận rằng Từ Dụ là một trong những nhân vật chủ trương tiêu diệt gia đình
Hồng Bảo nhắm mục đích " nhổ cỏ phải nhổ cả rễ " riêng Tự Ðức
chỉ vì yếu đuối mù quáng nghe lời mẹ , nên đành phải nhận một vết nhơ đối với
gia tộc và lịch sử; nhưng thâm tâm nhà vua vẫn luôn luôn hối hận đau khổ về
việc này.
Thực ra không phải chỉ riêng vụ Hồng
Bảo mà suốt 36 năm trị vì của vua Tự Ðức, ảnh hưởng của Từ Dụ Hoàng-thái-hậu
chẳng khác gì đám mây đen, bao phủ cả sân khấu chính trị thời bấy giờ . " Từ
huấn lục " của Tự Ðức là một cuốn sách ghi lời chỉ dạy của Thái-hậu,
những đêm đọc sử cho mẹ nghe là những buổi nhân chuyện xưa nói chuyện đời nay ,
để bà bảo cho những việc nên làm , những người nên dùng vv.. .. Bọn gian thần
thời bấy giờ biết được ảnh hưởng của Từ Dụ rất lớn, nên đã tìm cách lui tới mua
chuộc .
Về điểm này, Phan Bội Châu , một
nhân vật sống cách thời Tự Ðức không xa đã ghi nhận được nguồn dư luận đương
thời đối với Từ Dụ Hoàng-thái-hậu và ông đã công phẫn trình bày trong cuốn
" Việt Nam Vong Quốc Sử " như sau :
" Trong nước có Thái-hậu họ
Phạm, mẹ vua Tự Ðức đã ngu lại tham , thường can dự vào việc triều chính . Vua
Tự Ðức việc gì cûng trình qua Thái-hậu rồi mới thi hành. Nguyễn Văn Tường ( 34
) thường lấy những vật quí người Pháp hối lộ , đem hiến cho Thái-hậu để kết bè
đảng . Hôn bà gian tặc lộng quyền trong ngoài, làm đảo điên quốc chính, các bậc
chính nhân quân tử bị hãm hại , có kẻ bị chết chém có người bị cách chức về quê
. "國
中 有 太
后 范 氏
愚 而 貪,
爲 嗣 德
翼 宗 之
生 母, 干
預 朝 政,
翼 宗 事
事 稟 求
太 后 乃
行, 阮 文
詳 即 以
法 人 所
餌 之 重
賂, 結 母
后 心, 昏
婆 姦 賊,
表 裏 弄
權, 癲 倒
國 政, 陷
害 正 人
君 子, 或
則 橫 被
刀 斧, 或
則 黜 削
歸 里 . ( 35 )
Có người dễ dãi cho rằng Từ Dụ can
dự vào việc chính trị là do lòng thương con. Dưới cặp mắt bà , vua Tự Ðức chỉ
là cậu bé Hồng Nhậm bệnh tật yếu đuối cần được che chở đùm bọc, và tâm sự của
bà cũng giống như tâm sự bà mẹ Việt-Nam trong ca dao :
Ví dù cầu ván long đinh ,
Cầu tre lắt lẽo gập ghềnh khó đi .
Khó đi mẹ dắt con đi ,
Khó về mẹ cũng không hề bỏ con .
Tuy nhiên sự việc không quá đơn giản
như vậy, bằng cớ là sau khi Tự Ðức mất, Từ Dụ lúc này đã trên 70 tuổi, cái tuổi
mà con người ta có quyền gác bỏ thế sự, thì một lần nữa bà lại dấn thân vào
việc chính trị. Nguyên sau khi quân ta tấn công vào đồn Mang-Cá bị thất bại, xa
giá phải bôn ba ra Quảng-Trị ; tới đây bà nhất quyết đòi trở về Huế. Rồi bà
xuống dụ cho người gọi Hàm Nghi từ chiến khu về, nhưng vua không nghe lời.
Tháng 8 năm Ất Dậu bà ban đạo dụ khác tấn phong Hoàng-tử Ưng Kỳ lên làm vua,
lấy niên hiệu là Ðồng Khánh; nội dung đạo dụ hoàn toàn đề cao người Pháp và kết
tội phe chủ chiến Tôn Thất Thuyết là nghịch thần . ( 36 ) Chắc chắn khi làm
công việc trên, bà chịu áp lực mạnh của ngọai bang. Tuy nhiên nếu bà là một
người có tâm hồn yêu nước, thì sẽ vui lòng cùng vua Hàm Nghi ra chiến khu
Tân-Sở ; hoặc vì già yếu muốn trở về Huế tĩnh dưỡng, thì cũng nên lấy cớ già
yếu và lý do phụ nữ Việt-Nam không quen can dự vào việc triều đình để từ chối
việc hợp tác với Pháp, có như vậy bà mới tránh khỏi vết nhơ trong lịch sử .
Qua những chứng liệu đã trình bày ,
có thể kết luận rằng Từ Dụ Hoàng-thái-hậu là mẫu người đàn bà rất say mê việc
chính trị , cũng giống như một số phụ nữ lừng danh trong lịch sử các quốc gia
khác . Nhưng vì truyền thống dân Việt-Nam thời xưa không mấy thiện cảm với phụ
nữ chi phối việc triều đình ; nên bà không dám công khai xuất hiện trước sân
khấu chính trị. Ðiều đáng buồn là quan điểm chính trị của bà rất cạn hẹp , chỉ
cầu sự an toàn cho hai mẹ con ; nên có thể nói vua Tự Ðức đã lầm vào chữ "
hoà " của giặc ( 37 ), phần lớn do bà ảnh hưởng .
C . Ảnh hưởng của vợ đối với vua Tự
Ðức
Xét về Tự Ðức, ta thấy ở nhà vua
tình mẫu tử phong phú đặm đà bao nhiêu, thì tình vợ chồng lại càng nghèo nàn
nhạt nhẽo bấy nhiêu. Phải chăng con người ta được dồi dào về phương diện này ,
thì phải chịu khiếm khuyết về phương diện khác ; hay vì khiếm khuyết ở chổ này
, nên phải tìm nguồn an ủi ở chổ khác ?
Sở dĩ chúng tôi đặt vấn đề như trên,
vì có dư luận cho rằng vua Tự Ðức bị bất lực về cuộc sống vợ chồng. Ðiều nghi
vấn này khó có thể giải đáp được một cách trọn vẹn, vì đây là bí mật chốn phòng
the, sử sách không bao giờ dám đề cập tới. Tuy nhiên qua đạo dụ ra lệnh cho dân
chúng và quan lại ai có phương thuật tài năng được phép tự tiến cử, nhà vua hé
cho ta thấy một chút bí mật về việc không con nối dõi của ngài :
" Mỗi nghĩ đến thương mến sâu
xa của đức Hoàng-khảo ( 38 ), và lòng nhân từ phúc hậu của đức Thánh-mẫu ( 38 )
nên ta muốn hưởng thú vui có con , để khỏi thẹn với công ơn hai thân ; song đến
già rồi cũng chỉ buồn lo thì biết làm sao ? Muôn đời sau biết nói sao đây ! Vậy
chẳng thà chịu trăm lần lừa dối, để mong một lần công hiệu . Cầu cái không thể
được chỉ muốn làm hết sức người để trời rũ lòng thương , và mong được cái không
thể cầu là muốn trời chưa nỡ tuyệt lòng người vậy . "
Qua đọan văn vừa trình bày , khiến
người đọc không khỏi ngạc nhiên ở hai nhóm chữ cầu cái không thể được ( 求 其
不 可 得
cầu kỳ bất khả đắc ) và được cái không thể cầu ( 得 其
不 可 求
đắc kỳ bất khả cầu ) . Thiết tưởng đối với một người đàn ông lành mạnh thì việc
có con cái là lẽ thông thường ; tục ngữ há chẳng bảo rằng :
Cả sông đông chợ ,
Lắm vợ nhiều con .
Về vợ , nhà vua có cả tam cung lục
viện nên có rất nhiều điều kiện để có con; cớ sao phải than cầu cái không
thể được và mong được cái không thể cầu ? Suy nghĩ thêm về câu
văn bóng gió này , có thể hiểu được là nhà vua đã biết rằng mình không thể có
con , hay nói một cách rõ hơn cuộc sống vợ chồng của nhà vua có điều trục trặc
bất thường .
Nếu xét thêm về cách cư xử của nhà
vua đối với bà vợ chính Lệ Thiên Anh Hoàng-hậu, lại tìm thấy sự bất thường khác
. Lệ Thiên Anh Hoàng-hậu là con gái quan Ngự Tiền Đại-thần Vũ Xuân Cẩn . Bà
nhập cung năm Thiệu Trị thứ ba ( 1843 ) và được phong đến chức Quí-phi , đứng
đầu sáu cung. Nhưng đến năm Tự Ðức thứ 35 ( 1882 ) tức là sau 39 năm kết nghĩa
vợ chồng , bà bị khiển trách và giáng xuống Trung-phi qua đạo dụ như sau :
" Hoàng Quí-phi họ Vũ gắn bó
với Trẫm đã lâu , niên kỷ cũng đến tuổi giai lão. Trẫm đãi rất hậu , mới phong
đến bậc nhất trong hàng cung giai để coi sóc sáu cung , đôn đốc kính cẩn siêng
năng cho yên lòng Trẫm , thật là vinh hạnh thay .
Tưởng rằng tuổi càng cao, thì đức
càng sáng để xứng với ân mệnh . Không ngờ từ đó tới nay , mảy may không lưu ý ,
siêng nhác mặc người, không hề răn dạy, phàm công việc không khỏi gây phiền,
thực cô phụ chức phận; đó là tự mình lười biếng thì đâu còn đốc suất được
người. Song Trẫm thường khoan dung , không nỡ nặng lời quở trách .
Từ khi Trẫm bị bệnh nặng tới nay;
đáng lẽ phải chăm chỉ lo lắng gấp bội , luôn luôn đứng ngồi hầu hạ bên giường
và cho Trẫm ăn uống đầy đủ thích nghi, mới xứng với địa vị cao cả và đạo vợ
chồng . Cớ sao môt niềm trễ nãi , lại không thấy chút tình ưu ái . Ðến nỗi việc
dâng cơm nước thường ngày cũng cố ý trì trệ, no đói thất thường ; vậy thì sự
phụng dưỡng ở đâu và thuốc thang nào còn bổ ích ? Ðạo vợ chồng lấy điều thuận
làm chánh , chủ quỹ ( 39 ) làm đầu tất phải sớm tối siêng năng điều dưỡng không
khuyết , thế mà còn lo chưa an tâm , chưa xứng vị ; huống hồ chậm trễ bất kính
thì tình nghĩa chức phận ở chỗ nào ?
Gia dĩ cậy thế được yêu , mỗi lần
quở phạt sắc mặt tỏ vẻ ta oán , tiêu pha xa xỉ lại còn dám nài nĩ mong ân . Sao
không nghĩ lộc vị hưởng đến như vậy là hơn người bội phần , có gì thiếu nữa đâu
mà còn đòi hỏi không chán . Nếu như kẻ khác bắt chước theo thì tội ai gánh .
Lỗi ngươi dồn dập quá nhiều sao chưa mảy may sửa đổi ?
Ôi ! Pháp luật là chung cho mọi
người , có tề gia mới mong trị quốc , ví phỏng cứ như lệ cũ mỗi mỗi dung tha ,
thì kẻ không hiểu biết sẽ thỏa theo điều trái ; lấy điều may được tha thứ cho
là đắc ý , không một chút sợ mà sửa đổi , như thế đâu phải là đạo thành toàn .
Bởi vậy phải trừng phạt một kẻ để cảnh giác hàng trăm , có thấy hình phạt thì
mới biết ơn . Vậy giáng Hoàng Quí-phi họ Vũ xuống làm Trung-phi song vẫn giữ
nguyên chức và cai quản thượng-nghi , không cần thay thế để tránh lạm dụng ; khiến
cho ngươi nhìn lại danh nghĩa , sửa lỗi đổi mới , may được đẹp đẽ về sau , đó
là ân nghĩa trọn vẹn .
Nhược bằng cứ như tật cũ, không chịu
sửa mình thì chỉ là cây gỗ mục không thể chạm khắc được , còn kể làm gì ! Ngươi
phải kính sợ ! Trẫm không nói lần thứ hai .
Kính đấy !
Ngày 24 tháng 12 nåm Tự Đức thứ 35
(40 )
Ðạo dụ vừa trình bày cho ta
những nhận xét sau đây: Lệ Thiên Anh Hoàng-hậu là bà vợ chính của Tự Ðức,
khi bị giáng trách thì bà đã có gần 40 năm chung sống với nhà vua, và cả hai
đều trên năm mươi tuổi. Thế mà chỉ vì lỗi lầm không mấy nặng nề bà bị giáng
xuống Trung-phi ; đó là một điều nhục nhã cho bà và cûng là điều đáng đặt câu
hỏi về vua Tự Ðức. Có phải đây là một cơn thịnh nộ nhất thời như chính sử chép
chăng ? ( 41 ) Quyết không phải ! Vì không ai giận vợ với một lý do đơn giän là
dọn cơm trễ , lại có đủ kiên nhẫn ngồi viết một bài văn trách phạt dài hơn 400
chữ , bố cục đã chặt chẽ, lời lẽ lại đanh thép! Vậy ở đây chỉ có thể là một cơn
ba đào mãnh liệt được nhen nhúm bởi những đợt sóng ngầm trước đó . Những đợt
sóng ngầm là những chuỗi ngày buồn bả nhạt nhẽo của cặp vợ chồng không con ,
trục trặc trong việc ái ân chăn gối, " nét mặt ta oán " ghi
trong đạo dụ, được hiểu thay cho những tiếng thở dài não nuột của người đàn bà
sống những chuỗi ngày lê thê trong chốn thâm cung , không phải bị thất sủng, mà
ở vào hoàn cảnh " Tuy trong gang tấc , mà ngoài quan san " .
Nếu là người tin số Tử Vi có thể bảo
rằng cung tử tức và thê thiếp của nhà vua rất xấu. Lệ Thiên Anh Hoàng-hậu đã
không đem lại hạnh phúc cho vua, mà cả bà Học-phi vợ khác của Tự Ðức cũng bị
đồn rằng có tư tình với viên Đại-thần Nguyễn văn Tường . ( 42 )
Tất cả những điều đã tìm hiểu , có
thể giúp cho việc đính chính bài thơ nỗi tiếng " Khóc Thị Bằng
" chép dưới đây; có thuyết gán cho Tự Ðức là tác giä :
Khóc Thị Bằng
Ớ Thị Bằng ơi đã mất rồi!
Ớ tình ớ nghĩa ớ duyên ôi.
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói,
Sớm ngỏ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi đeo hoài cứ chẳng thôi.
Thực vậy , xuyên qua cuộc sống
lứa đôi , Tự Ðức không phải là mẩu người đam mê về tình ái . Ảnh hưởng
của vợ đối với Tự Ðức thật không đáng kể ; hoặc nếu có chăng thì vấn đề vợ con
chỉ là một sự khổ lụy cho nhà vua mà thôi .
*
Làm vua không phải là một công việc
dễ dàng, trong lịch sử đã có những ngừơi tự xét khả năng mình không thể gánh
vác được, nên đã từ chối ; có những bậc cha mẹ khóc lóc năn nĩ, lấy cớ con mình
tài hèn phúc bạc xin đừng đưa lên làm vua .
Qua sự tìm hiểu về con người vua Tự
Ðức về các khiá cạnh : thể chất, tính tình, học vấn, cha mẹ, người phối ngẩu ;
người nghiên cứu có thể mạnh dạn nói rằng nếu lúc trẻ Hồng Nhậm ( tên húy của
Tự Đức ) được tham dự một cuộc trắc nghiệm về hướng nghiệp, thì kết qủa cho
biết rằng làm vua không phải là nghề tốt cho chàng và bản thân Hồng Nhậm cûng
không có tham vọng đó . Nếu được dành trọn đời vào công việc sáng tác thì
rất thích hợp, và sự nghiệp văn chương của Hồng Nhậm sẽ rạng rỡ chẳng kém gì
các vị chú ruột như Tùng-thiện-vương Miên Thẩm hoặc Tuy-lý-vương Miên
Trinh .
Ðiều đáng buồn cho Hồng Nhậm và cho
lịch sử nước ta là Từ Dụ Hoàng-thái-hậu có chủ ý khác. Với tham vọng của một
ngừơi mẹ, bà quyết dành cho con trai chức vụ quí báu nhất đời, đó là ngôi vua.
Đâu có ngờ rằng 36 năm làm vua của Tự Ðức là 36 năm đau khổ, vì không đối phó
nổi với thời cuộc, và cuối cùng đành phải chịu tội trước lịch sử làm một ông
vua gây nên cảnh vong quốc !
HỒ BẠCH THẢO
______________________________
CHÚ THÍCH
( 1 ) Ý chỉ Phan Thanh Giản .
( 2 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế Văn
Tam Tập , quyển nhị , Tự Biếm Dụ
( 3 ) Hồng là chữ đầu của tên , được
lấy theo thứ tự trong bài " Ðế Hệ Thi " nguyên văn như sau:
Miên , Hồng , Ưng , Bửu , Vĩnh .
Bảo , Quí , Ðịnh , Long , Trường .
Hiền , Năng , Kham , Kế , Thuật .
Phúc , Tộ , Bách , Gia , Xương .
Bài thơ này được Minh Mệnh ban ra
vào năm 1823 để phân biệt những con cháu thuộc dòng dõi nhà vua với những dòng
khác , chỉ những người trong dòng này mới có thể lên làm vua . Như con Minh
Mệnh : Miên Tông ( Thiệu Trị ) ; cháu : Hồng Nhậm ( Tự Ðức ) ; cháu 3 đời : Ưng
Lịch ( Hàm Nghi ) ; cháu 4 đời : Bửu Lân ( Thành Thái ) ; cháu 5 đời : Vĩnh
Thụy ( Bảo Ðại ) cháu 6 đời: Bảo Long ( con Bảo Ðại ) . Nên nhớ đây chỉ là chữ
đầu của tên , riêng họ là Nguyễn ; vậy muốn gọi đầy đủ họ tên Vĩnh Thụy , phải
gọi là Nguyễn Vĩnh Thụy , hoặc Nguyễn Phứơc Vĩnh Thụy .
( 4 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế
Văn Tam Tập , quyển 4 , tờ 3b, 4a .
( 5 ) Trần Trọng Kim , Việt-Nam
Sử Lược , trang 473 .
( 6 ) Tạ Quang Phát , Từ Dụ Hoàng
Thái Hậu , trang 50 .
( 7 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế
Văn Tam Tập , quyển 3 , tờ 12b .
( 8 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế
Văn Tam Tập , Quyển hai , tờ 3a .
( 9 ) Thái-Y : thầy thuốc của nhà
vua .
( 10 ) Tự Ðức , Tứ Tế Tứ Ðệ Kiến
Thụy Quận-vương Văn , Tự Ðức Thánh Chế Văn Tam Tập , quyển 10 .
(11 ) Tú khí : khí thiêng hun đúc .
( 12 ) Tiên thiên : bẩm sinh .
( 13 ) Con vua đến tuổi phải ra ở
lầu gác riêng .
( 14 ) Ðối : câu đối , thi : thơ ;
câu đối và thơ là hai môn học thời xưa .
( 15 ) Hai anh em theo vua cha Thiệu
Trị đi kinh lý miền Bắc , gọi là " Bắc tuần ngự giá "
( 16 ) Nhớ đến sự đùa dỡn ngày xưa
không còn cười được nữa , trước cảnh tang tóc nó đã trở thành những kỷ niệm đau
khổ .
( 17 ) Xin xem phần văn nghiệp .
( 18 ) Tự quân : vua kế vị .
( 19 ) Trần Trọng Kim , Việt Nam
Sử Lược , trang 473 .
( 20 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế
Văn Tam Tập , quyển 10 , bài số một .
( 21 ) Tự Ðức , Ngự Chế Thi Sơ
Tập Tự Tự , quyển 10 , tờ 1a .
( 22 ) Thăng đường nhập thất : học
vấn đến bậc cao minh là thăng đường , dò đến chỗ sâu kín là nhập thất .
( 23 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế
Văn Tam Tập , quyển 11 , Ngũ Tuần Ðại Khánh yến Phẩm Cẩm Ngọc Biểu , tờ 7 b
.
( 24 ) Quốc Sử Quán triều Nguyễn , Ðại-Nam
Chính Biên Liệt Truyện , nhị tập , quyển 2 tờ 5a .
( 25 ) Tư các : gác riêng dành cho
Hoàng-tử .
( 26 ) Từ Dụ Hoàng-thái-hậu
Truyện .
( 27 ) Từ Dụ Hoàng-thái-hậu
Truyện .
( 28 ) Nguyễn Khuê , Tâm Sự Tương
An Quận-vương Qua Thi Ca Của Ông .
( 29 ) Lễ mừng thọ Từ Dụ 60 tuổi .
( 30 ) Tạ Quang Phát , Từ Dụ
Hoàng-thái-hậu , Việt-Nam Khảo Cổ Tập San , số 5 , 1968 , trang 153-166 .
( 31 ) Tâm Trạng Tương An
Quận-vương Qua Thi Ca Của Ông , trang 211 .
( 32 ) Giáo-sư Bửu Cầm cho rằng đó
là một cái chết khả nghi , người ta không tin là tội nhân tự tử , nhưng bị giết
. (Dẫn bởi " Tâm Trạng Tương An Quận-vương Qua Thi Ca của Ông " trang
314 )
(33 ) Từ Dụ Hoàng-thái-hậu Truyện
, trang 53 .
( 34) Nguyễn Văn Tường : một viên
quan Đại-thần nắm trọng trách về ngoại giao thời bấy giờ .
( 35 ) Phan Bội Châu , Việt-Nam
Vong Quốc Sử , Tập San Đại Học Văn Khoa , niên khoá 1959-1960 , trang
6 .
( 36 ) Từ Dụ Hoàng-thái-hậu
truyện , trang 200 .
( 37 ) Phan Khoang , Việt Nam
Pháp Thuộc Sử , Trang 274 : Vua Tự Ðức than với quần thần về việc viên
Đại-diện Pháp phản đối sự tăng cường phòng thủ ở cửa bể Thuận-An như sau :
" Sở ngôn sở hành của họ như
vậy , làm sao mà tin được . Phòng bị là một việc thường của một nước ,lẽ nào
bắt người ta bó tay đừng làm gì cả mới bằng lòng sao ? hèn chi các tỉnh có
phòng bị thì họ đều muốn triệt đi , để trước sau lấy một chữ hoà mà phỉnh gạt
ta cho được " .
( 38 ) Xưng cha vua đã mất là
Hoàng-khảo , mẹ vua là Thánh-mẫu .
( 39 ) Chủ qũy tức là người vợ chính
, thường nắm ngân quỹ trong gia đình .
( 40 ) Tự Ðức , Tự Ðức Thánh Chế
Văn Tam Tập , quyển 9 , tờ 11b , 12a , 12b ,13a .
( 41 ) Quốc Sử Quán triều Nguyễn , Ðại-Nam
Chính Biên Liệt Truyện , tập 2 , quyển 4 , tờ 3a , 3b ghi như sau : Mùa
đông tháng chạp năm Tự Ðức thứ 35 giáng làm Trung-phi . Lúc đó công vụ đa đoan
, vua làm việc quên ăn nên kém sức khỏe , phải dùng thuốc . Bọn cung nhân dâng
cơm chậm trễ , làm trái ý vua nên Hoàng-hậu bị giáng xuống làm Trung-phi .
( 42 ) Phan Khoang , sách đã dẫn ,
trang 335 : có người nói bà Học-phi Nguyễn-thị ( vợ vua Tự Ðức ) mẹ nuôi vua
Kiến Phúc có tư tình với Nguyễn Văn Tường . Một hôm vua Kiến Phúc đau , Tường
vào thăm và trò chuyện với bà . Vua nghe được và có hăm dọa ; Tường thấy thế
nguy , bèn xuống Thái-Y viện bốc một thang thuốc để dâng vua uống , ngày hôm
sau thì vua băng .
No comments:
Post a Comment