Trong giới ngữ văn học, người ta
biết đến Trịnh Bá Ðĩnh như một người có những công trình nghiên cứu, dịch thuật
công phu với những tìm tòi tâm huyết, nhất là với hướng cấu trúc - ký hiệu học.
Cuốn sách mới ra mắt gần đây của ông
dường như lại nhắm vào một đề tài khác, là những vấn đề của nền phê bình văn
học hiện đại nước nhà: lịch sử, các phương pháp của nó và những vấn đề đang
được đặt ra trong lý luận phê bình hiện nay, hay như tác giả gọi là "phê
bình văn học trong thời đại thông tin"...
Như tác giả đã viết trong Lời mở
đầu, đây là công trình tập hợp những bài viết về phê bình văn học Việt Nam của
ông trong mười năm trở lại đây. Một công trình như thế, tất không tránh khỏi
một vài luận điểm và dẫn chứng, một vài cách diễn đạt nào đó có sự lặp lại, một
số vấn đề đã giảm tính thời sự. Nhưng với người làm khoa học, nhất là trước đối
tượng phức tạp và đa dạng như nghiên cứu - phê bình văn học trong hơn một thế
kỷ qua, mười năm là khoảng thời gian cần thiết để người viết cẩn trọng, phân
tích đầy đủ diện mạo, đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của hoạt động
phê bình văn học nước nhà, từ đó đi tới đề xuất những vấn đề hữu ích đối với
hoạt động phê bình văn học đương đại.
Về cấu trúc, cuốn sách được chia làm
ba phần với ba trọng tâm khác nhau. Phần thứ nhất, tác giả nhận diện phê bình
văn học Việt Nam thế kỷ 20 qua những phong cách phê bình, tập trung đánh giá
lại những thành tựu và hạn chế của phê bình văn học Mác-xít. Tác giả dành nhiều
trang viết tâm huyết giới thiệu và phân tích những phương pháp phê bình như phê
bình cấu trúc luận, giải thích văn bản và so sánh văn học, phân tích tác phẩm
theo cấu trúc - loại hình. Phần thứ hai, Trịnh Bá Ðĩnh tập trung phân tích các
kiểu diễn ngôn phê bình đầu thế kỷ 20, lịch sử tiếp nhận - nghiên cứu Nguyễn Du
và Truyện Kiều, đặc điểm của việc tiếp nhận tư tưởng lý luận văn học nước ngoài
từ năm 1955 cho đến nay. Phần ba là những suy ngẫm của tác giả về thực trạng
đời sống văn học đương đại và con đường của lý luận - phê bình văn học Việt Nam
tương lai.
Trên những nét lớn, Phê bình văn học
Việt Nam hiện đại có giá trị như một công trình nghiên cứu lịch sử và phương
pháp phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay. Phê bình được nhìn
từ nhiều góc độ khác nhau (và theo tôi đây là đóng góp chủ yếu của cuốn sách):
Loại hình nhà phê bình, các kiểu diễn ngôn phê bình, số phận của các phương
pháp phê bình, quá trình tiếp biến các tư tưởng lý luận văn học nước ngoài, sự
vận động của các phương pháp phê bình xoay quanh lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều,
chân dung một số nhà nghiên cứu - phê bình văn học tiêu biểu từ quá khứ đến
đương đại. Ðể tiếp cận phê bình văn học Việt Nam từ nhiều góc độ như thế, tác
giả là người đã đọc kỹ, nghiền ngẫm thấu đáo những công trình nghiên cứu phê
bình tiêu biểu của thế kỷ vừa qua của các tác giả Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Quỳnh,
Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Ðào Duy Anh, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung,
Nguyễn Bách Khoa, Ðặng Thai Mai, Phan Cự Ðệ, Hà Minh Ðức, Lê Ðình Kỵ, Phan
Ngọc, Ðỗ Ðức Hiểu, Trần Ðình Sử, Ðỗ Lai Thúy, Vũ Ðức Phúc, Ðỗ Ðức Dục, Trần
Ðình Hượu, Hoàng Trinh, Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn Lộc, Nguyễn Ðăng Mạnh, Hoàng
Ngọc Hiến, Lê Ngọc Trà... Những phương pháp phê bình cơ bản, những ưu điểm và
nhược điểm của từng loại hình nhà phê bình, những đặc điểm của từng kiểu diễn
ngôn phê bình trong lịch sử đều được nhìn nhận, đánh giá công tâm, nghiêm túc
và cẩn trọng. Chẳng hạn, nghiên cứu trường hợp Nguyễn Bách Khoa, ông cho rằng,
hai quan điểm cơ bản đã từng bị phê phán kịch liệt từ nhiều phía của Nguyễn
Bách Khoa (về tính độc lập tương đối của văn học, về sự khu biệt của văn học)
lại là những điểm khả thủ nhất trong sự nghiệp phê bình - nghiên cứu của Trương
Tửu nhìn từ hôm nay. Khảo sát trường hợp Lê Ðình Kỵ, ông chỉ ra rằng, chính
quan điểm "không vì lý thuyết mà quên mất thực tiễn" đã giúp cho Lê
Ðình Kỵ có những trang viết sánh ngang với Hoài Thanh, công trình về Truyện
Kiều của ông nhờ đó sống được với thời gian.
Theo Trịnh Bá Ðĩnh, đặc điểm, thành
tựu, hạn chế của phê bình văn học Việt Nam hiện đại là kết quả của các quá
trình giao lưu văn hóa. Giao lưu càng rộng, càng đa dạng, đa diện thì bức tranh
văn học càng sôi động và phê bình cũng đa sắc, thêm nhiều thành tựu. Từ năm
1955 đến cuối thập kỷ 80, chúng ta chỉ giao lưu, tiếp xúc chủ yếu với các nước
xã hội chủ nghĩa. Trong giới thiệu, tiếp nhận các quan điểm lý luận Mác-xít bộc
lộ những phiến diện "đã làm tổn hại đến một trào lưu lý thuyết về văn học
nghệ thuật chứa đựng nhiều chân lý và sáng tạo" (tr. 278). Về phía người
nhận, hậu quả của quá trình tiếp thu máy móc và phiến diện đó là những quan
điểm văn học nghệ thuật giáo điều, lý luận - phê bình văn học đã đi từ những
uyển chuyển mềm mại đến những sự quy phạm hóa cứng nhắc, áp đặt, "làm giảm
uy tín của phê bình nghiên cứu văn học theo tinh thần phản ánh luận" (tr.
266). Từ những năm 80 trở lại đây, cùng với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội,
phê bình văn học "từ chân trời một phía đến chân trời nhiều phía".
Chúng ta được tiếp thu nhiều "kênh", nhiều quan điểm, nhiều lý thuyết
có khi trái ngược nhau, đời sống văn học và phê bình phức tạp, đa dạng, phong
phú hơn.
Trịnh Bá Ðĩnh cho thấy, bản sắc
truyền thống và yếu tố ngoại nhập, ưu nhược điểm của phê bình văn học Việt Nam
đều thể hiện trong hơn hai thế kỷ phê bình nghiên cứu Truyện Kiều. "Việc
dịch chuyển máy móc các phạm trù được phát hiện trong lịch sử văn hóa phương
Tây sang các hiện tượng văn hóa các nước phương Ðông ẩn chứa nhiều hiểm
họa" - đó là tư tưởng của N.I.Co-rát mà Trịnh Bá Ðĩnh tâm đắc (tr. 149). Nhưng
ông cũng lưu ý rằng nếu tự khóa chặt mình, không có giao lưu, học hỏi, tiếp thu
và vận dụng kinh nghiệm nước ngoài, rất khó xây dựng một nền lý luận phê bình
văn học hiện đại. Gắn với quá trình tiếp xúc đa dạng với thế giới bên ngoài,
phê bình từ những năm 80 đến nay chuyển hướng, từ phản tư đến hội nhập. Nhận
diện lý luận phê bình hiện nay, ông tin rằng phê bình đang trong xu hướng tiến
tới tính hiện đại và nhân văn. Theo ông, phê bình lý luận phải được định hướng
nhằm khám phá những giá trị nhân văn trong văn học, cổ vũ lòng dũng cảm, chia
sẻ những bất hạnh, chất vấn lẽ sinh tồn của con người và phải được phát triển
đồng bộ với các lĩnh vực khoa học nhân văn khác.
Thông qua việc khảo sát những đặc
điểm và diện mạo hơn một thế kỷ qua của phê bình văn học, Trịnh Bá Ðĩnh thường
lồng ghép vào đó những quan điểm riêng của ông về nghề nghiệp và về văn chương.
Theo ông, nghệ thuật không phản ánh hiện thực, nghiền ngẫm hiện thực mà đó là
cách sống với hiện thực. Với ông, "ngôn ngữ ở trong chúng ta đồng thời
chúng ta ở trong ngôn ngữ" (tr. 71), "ngôn ngữ luôn mang thông tin về
hiện tại", "hàm chứa ký ức truyền thống" (tr. 52). Như thế, văn
học vừa sống với hiện thực, vừa sống trong thế giới của nó:
Thế giới của ngôn ngữ. Ông cổ vũ
những đổi mới văn học vì nhận thức rõ rằng "bất kỳ một tác phẩm cách tân
táo bạo nào cũng dựa trên truyền thống". Tôi tâm đắc với tác giả khi ông
cho rằng, lý luận - phê bình văn học chỉ có thể phát triển trong môi trường đối
thoại. Không có đối thoại sẽ không có sáng tạo. Vì chỉ trong môi trường đối
thoại, lý luận và phê bình mới đạt được sự thống nhất giữa tính hiện đại và
tính nhân văn.
NGUYỄN VĂN THUẤN
Nguồn: Nhân Dân
No comments:
Post a Comment