“Trẩm coi rằng cuộc
chinh phục bằng Phật pháp
là cuộc chinh phục tốt nhất”
Devanampriya Priyadarsi, Ashoka
(“Thương quí của thần linh và xem mọi người là bạn”,
Hoàng đế Ashoka)
Nguyễn
Đức Hiệp
Trong kho tàng văn hoá Ấn Độ Có nhiều huyền thoại,
truyện cổ tích được kể lại trong các tác phẩm còn được lưu truyền lại. Trong
hằng hà sa số các nhân vật trong văn chương còn lưu truyền lại, như các tác
phẩm cổ điển Ramayana, Mahabharala, Baghavad Gita cũng như bao huyền thoại về
các nhân vật, vua chúa, người ta biết là các nhân vật trên đều không có thật trong
lịch sử cùng lắm chỉ là huyền thoại, huyền sử thêu dệt quanh các sự kiện trong
quá khứ. Một số các tác phẩm liên hệ đến Phật giáo như Mahavamsa (sử biên niên
huyền thoại của Tích Lan), Asokavadana, Divyavadana có kể và nhắc đến vị vua
tên là Ashoka (còn được gọi là A Dục trong tiếng Việt).
Các câu truyện về Ashoka kể về một vị hoàng tử lúc đầu
tàn ác, giết các anh em mình để lên ngôi vua, nhưng sau này thay đổ, sám hối
theo đạo Phật và đã sáng suốt cai trị đất nước trong thái bình. Ông cũng truyền
bá Phật pháp khắp nơi từ Ấn độ qua các nước lân bang. Các câu truyện kể là sự
thay đổi của Ashoka qua đạo Phật, sau khi ông chứng kiến một phép lạ: Vua
Ashoka có một nhà tù nổi tiếng với các cai ngục độc ác, ít có ai thoát sống an
toàn khi đã vào đó. Một hôm, có một nhà sư bị bắt mang vào đó, cai ngục đã phải
báo với nhà vua vì có một sự kiện lạ lùng. Vua Ashoka đã đích thân đến chứng
kiến. Sau khi đã được lệnh, nhà sư bị bỏ vào vạc nước sôi nhưng kỳ lạ thay, nhà
sư không bị hề hấn gì mặc dầu đã bị bỏ vào nhiều lần. Từ đó về sau, vua Ashoka
đã dứt bỏ cái ác, theo đạo Phật và từ đó vương quốc được cai trị độ lượng và
hạnh phúc khắp nơi. Thầy Huyền Trang, trong ký sự đi Tây vực từ Trung quốc đến
Ấn độ vào những năm 629-645, đã có nhắc về nhà tù xưa củ của Ashoka vẫn còn
được nhắc đến (3).
Trong văn học, các câu truyện trên đều không được coi
trọng và dể quên bởi có rất nhiều truyện và huyền thoại về các vị vua. Câu
truyện quá tốt đẹp để có thể tin được là ngoài đời có vị vua như vậy. Thường
thì nhiều câu truyện được kể để nói lên ước vọng của quần chúng về một vị vua
lý tưởng hiện ra để có thể thay thế vị vua độc đoán đang cai trị mình. Câu
truyện về vua Ashoka cũng được coi như vậy và quên lãng cho đến thế kỷ 19 khi
các dòng chữ cổ trên các tượng cột, phiến đá nằm rải rác khắp Ấn độ, Nepal,
Pakistan, Afghanistan tưởng như không ai đọc được, đã được giải mã bởi một nhà
khoa học trong những trường hợp hi hữu trong lịch sử khảo cổ học.
*
(1) Ấn độ huyền bí
Khi người Anh đến bán đảo Ấn độ đầu thế kỷ 17, triều
đại Moghul Hồi giáo đã cai trị trên đất Ấn. Dân Ấn lúc bấy giờ (và mãi đến hiện
nay) đa số là theo Ấn độ giáo và Hồi giáo. Tầng lớp cai trị theo đạo Hồi với
những kiến trúc rực rở và gây ấn tượng như Taj Mahal. Triều đại Moghul tạo một
nề nếp văn hoá có qui củ từ phương Bắc đi vào kết hợp với văn hoá bản địa Ấn,
họ chi tiết viết ra những sự kiện xảy ra. Lịch sử của triều đại Hồi giáo này đã
được ghi lại tương đối đầy đủ. Tuy vậy trước triều Moghul (khoảng thế kỷ 16 trở
về trước), sử liệu hầu như rất thiếu sót, mờ mịt đầy những mảng trống, vài vết
tích còn lại thì bị đi vào quên lãng. Lý do là vì sự phá huỷ các vết tích củ,
công trình của các triều đại củ khi người Hồi Moghul từ Tây Bắc xuống chinh
phục Ấn độ và quan trọng không kém là sự thiếu sót ghi lại chính thức các dự
kiện của các triều đại củ hay của các tiểu quốc ở khắp bán đảo Ấn độ. Chỉ còn
lại là một bảng liệt kê không đầy đủ tên của các vị vua theo thứ tự thời gian
từ các công nguyên trước Tây lịch, viết bằng chử Sanskrit (Phạn) được giai cấp
Brahma còn giữ lại.
Đầu thế kỷ 19, một số kiến trúc phong phú và đặc sắc
đã được khám phá từ các hang động, thành phố đã bị bỏ hoang từ bao thế kỷ nay
đã bị bao trùm trong rừng rậm như: Elephanta, đảo Salsette, Ajanta, Ellora,
Bagh, Karli. Đặc biệt là các đền đài được tạo ra từ sự đục khắc từ một quả đồi,
hay quả núi chứ không phải là được xây lên từ các viên gạch, đá hay các nguyên
liệu khác. Kiến trúc như vậy quả có một không hai trong kiến trúc trên thế giới.
Các đền đài đã bị bỏ hoang và là nơi trú ngụ của các muông thú rừng kể cả cọp.
Lord Valencia, người thám hiểm khám phá các đền ở đảo
Salsette gần Bombay, tin chắc rằng pho tượng của một nhân vật ngồi với các tín
đồ chung quanh ở đền Karli là "Bodth" (Bụt), bởi vì ông cũng vừa đến
từ Tích Lan nơi mà đạo Phật thờ "Bụt" vẫn còn thịnh hành mặc dầu ở Ấn
độ không còn mấy ai biết đến.
Tuy vậy nhiều học giả Tây phương cho rằng các đền đài
và kiến trúc của văn minh cổ này không phải xuất phát từ bản địa Ấn độ mà là từ
bên ngoài đưa vào. Hay ít nhất nghệ thuật Ấn độ là do truyền đạt từ yếu tố
ngoại nhân. Họ nghĩ rằng có thể là do các nhóm người Hy Lạp, Phoenecia, hay Do
thái đến định cư ở Tây Ấn từ các thế kỷ đầu kỷ nguyên Ki Tô. Có người cho rằng
cũng có thể là từ Phi châu của những chủ nhân đã xây Kim Tự Tháp trước kia. Họ
dựa các giả thuyết trên là vì các đền đài, kiến trúc cổ đại trên quá hùng vĩ,
nghệ thuật quá sắc sảo đáng ngạc nhiên mà người Ấn lúc bấy giờ làm sao có khả
năng làm được khi mà các kiến trúc ở các thành phố đang ở, mặc dầu có nghệ
thuật nhưng chỉ là tầm thường so với cái được khám phá.
Họ cũng lý luận rằng chỉ ở phía Tây bán đảo Ấn độ là
có những di tích trên. Nhưng sau đó có sự khám phá di tích Bảy chùa ở gần
Madras, các cột tròn ở Bihar (hàng ngàn dặm cách Delhi) và chung quanh Bombay,
Madras và ở Karli với các kiến trúc giống nhau cho thấy giả thuyết trên là sai.
(2) Bí ẩn cột đá
Năm 1616, Thomas Coryat trong lúc khảo sát thành phố
Delhi đã bỏ hoang (thành phố mới gần đó được gọi là New Delhi), ông tìm được ở
Delhi giữa đống hoang tàn trải hơn 10 dậm mà chỉ có dơi và khỉ trú trong các
lâu đài đổ nát, một cột tròn cao khoảng 20m, sáng trong ánh trăng. Cột tượng
nổi bật ra vì nó khác lạ với các kiến trúc đổ nát chung quanh và thêm nữa là
niên đại có vẽ cổ hơn và phong cách nghệ thuật đặc biệt của cột. Đứng xa thì
tưởng như bạc, gần chút nữa thì tưởng là cẩm thạch, nhưng thật ra là đá vôi cát
(sandstone).
Với mặt nhẵn bóng như cẩm thạch và chữ khắc trông
giống như chữ Hy Lạp. Coryat cho rằng có thể Là do Alexander đại đế (hay các
hậu duệ tướng lĩnh của ông) dựng lên sau cuộc viễn chinh qua tận Á châu.
Năm mươi năm sau đó, John Marshall khám phá một cột
tượng đá tương tự ở Bihar, ông miêu tả là trên đầu cột có một tượng khắc hình
sư tử, chữ viết rất lạ, giống như các chữ viết tìm thấy ở các đền Karli và các
đền khác.
William Jones, học giả thông thái Sanskrit (Phạn),
người đầu tiên khám phá sự liên hệ giữa các ngôn ngữ và tìm ra cây ngôn ngữ
Ấn-Âu (Indo-European). Jones thành lâp hội nghiên cứu về văn hoá, văn minh Ấn
gọi là Asiatic Society. Với sự thành lập hội, Jones hy vọng có thể qui tụ các
trí thức và làm ra ánh sáng các sự kiện lịch sử đã mất. Sự thành lập hội đã cho
phép các nhà học giả có môi trường để trình bày các khám phá của mình.
Charles Wilkins khám phá các cột ở Buddal (tiểu bang
Bihar). Ông là người Tây phương đầu tiên biết tiếng Phạn (Sanskrit) và ông đã
giải được mã các dòng chữ hơi cổ, các chữ này mặc dầu khác với loại chữ hiện
đại đang dùng gọi là Devanagari, nhưng giữa chúng có sự liên hệ và giống nhau.
Ngày nay người ta biết rằng chữ viết ở Ấn độ trải qua sự tiến hóa qua 4 giai
đoạn sau: chữ cổ và thô sơ nhất gọi là Ashoka Brahmi, chữ hơi văn hoa và hơi
dứt đoạn Gupa Brahmi, chữ tròn lẵng và cong Kutila Brahmi và chữ dùng hiện nay
là Devanagari
Ashoka Brahmi ----> Gupta Brahmi ----> Kutila
Brahmi -----> Devanagari
Các kiểu chữ mà Wilkins giải được là các chữ mà sau
này được gọi là Kutila, Gupta Brahmi. Ông trình bày sự khám phá của mình ở Hội
Asiatic Society. Nhưng đối với các sử gia thì cột ở Buddal không có thông tin
mới lạ, nó chỉ nói lên nghi thức tôn giáo đã biết.
Trong nhiều năm, Jones và nhiều người không ai giải
được chữ trên cột Delhi viết bằng chữ cổ Ashoka Brahmi. Sự khám phá của ông
Wilkins cũng đi vào quên lãng. Chỉ sau này người ta mới để ý nhớ tới khi các
nhà nghiên cứu sau này, gồm có Prinsep, thành công giải mã lại những gì ông đã
làm trước kia.
(3) Prinsep và những bước đầu
James Prinsep đến Ấn độ năm 1819. Ông là nhà khoa học
học về kiến trúc. Đến Ấn độ làm việc ở Benares. Xây dựng hệ thống nước và chất
thải công cộng. Ông làm một thời gian, sau đó được thuyên chuyển đến sở đúc
tiền hoàng gia. Khác với Jones, Prinsep rất cẩn thận và tỉ mỉ. Ông làm việc
trong sở đúc tiền. Thâu thập các đồng tiền xưa ở khắp Ấn độ.
Vì có kinh nghiệm nghiên cứu các đồng tiền cổ và các
chữ xưa khắc trên tiền, sau đó ông đến Calcutta làm việc với ông Horace Wilson,
học giả chữ Sanskrit (Phạn) và là thư ký của Hội Asiatic Society. Ở đây, ông
bắt đầu để ý nghiên cứu đến các chữ cổ trên đồng tiền. Ông làm việc rất tỉ mỉ,
chăm chỉ và có phương pháp khoa học.
Trong thời gian này người ta lại tìm thêm được cột
tượng ở Allahabad, tương tự như cột ở Delhi. Trên cột tượng, ngoài các dòng chữ
Ba Tư ở vào thời kỳ Moghul, còn có hai loại chữ đã mờ và cổ hơn là Ashoka
Brahmi và Gupta Brahmi.
Các bản faxsimile được tạo ra từ các chữ viết trên cột
tượng để gởi cho các nhà nghiên cứu khắp nơi. Xưa kia các bản faxsimile được
tạo ra bằng phương pháp cổ truyền là trước hết bôi in mực lên cột tượng, sau đó
lấy giấy ấn bao bọc chung quanh cột. Nhờ bản faxsimile gởi tới Hội Asiatic
Society năm 1834, Prinsep và học giả Sanscrit W. Wills giải được chữ Gupta
Brahmi. Đây là chữ viết mà Wilkins đã giải và đọc được trước đây hơn 50 năm.
Nhưng lần này văn bản giải được cho biết rất nhiều thông tin về quá khứ trong
lịch sử, cho thấy chi tiết về một vua Samudragupta, con vua Chandragupta chinh
phục 9 nước. Đây là bước đầu hé mở một triều đại hoàng kim của lịch sử Ấn độ,
sau này được gọi là triều đại Gupta (từ năm 320 đến năm 460 AD), với kiến trúc
rực rỡ ở các thành phố Sarnath, Ajanta, Mathura và kịch gia Kalidasha nổi tiếng
với kịch tác Sakuntala, được gọi là Shakespeare của Ấn độ. Kết quả này làm phấn
khởi và động viên Prinsep tiếp tục nghiên cứu để đọc các chữ cổ trên tượng.
Nhưng chữ Ashoka Brahmi vẫn không ai giải được. Một
học giả nghĩ rằng chữ cổ Ashoka Brahmi là chữ Hy lạp xưa, ông cho rằng đã đọc
được một số chữ ấy trên một đồng tiền. Nhưng Prinsep hoài nghi và không tin vì
nếu lật ngược đồng tiền lại thì vẫn là chữ không đọc được.
Prinsep viết lên tạp chí Asiatic Society, kêu gọi các
học giả cố gắng giải được chữ cổ Ashoka Brahmi. Sau khi đọc được bài của
Prinsep, nhà nghiên cứu Hogson ở Nepal, gởi cho Prinsep một bản faxsimile của
cột tìm được gần biên giới Ấn độ. Người ta tự hỏi có thể nào cột tượng là dấu
hiệu để đánh dấu biên cương hay không?. Sau khi nhận được tư liệu của Hogson,
Prinsep tập trung giải chữ dùng ba bản lấy từ chữ khắc trên ba cột ở Delhi,
Allahabad và Nepal. Trên ba bản, một số các chữ mất và đã mòn.
Lúc đầu tập trung vào phân tách các mẫu tự phụ âm và
nguyên âm với các dấu chung quanh, ông suy qua suy lại từ bản để kiểm chứng.
Đến một lúc, thình lình ông rung cảm từ cột xương sống bởi vì ông phát hiện
rằng cả ba bản đều giống nhau. Ta nên nhớ là các cột tượng đã trãi qua gần 2000
năm, nên nhiều chữ đã mất và một số chữ đã bị các chữ mới viết trồng lên trên.
Bằng cách dùng cả ba bản để bổ túc cho nhau, Prinsep đã viết lại đầy đủ bài
viết trên cột tượng.
Mặc dầu vẫn chưa giải được, nhưng Prinsep cho rằng
những chữ viết này trên cột tượng và trên đá nằm rãi rác trên khắp các lãnh thổ
Ấn độ cho thấy vương quốc và người làm ra chúng là rất quan trọng trong lịch sử
Ấn độ.
Trong bốn năm tiếp theo, Prinsep cố giải bằng đủ cách.
Từ cách dùng chữ Gupta Brahmi để đi ngược lại, đến cách ông dùng thống kê theo
các tần số của các mẫu tự ở hai chữ viết nhưng cũng không đi đến đâu. Ông đoán
rằng ngôn ngữ trong chữ Ashoka Brahmi là chữ thuần tuý Sanskrit. Sau này mới
biết rằng đó là sai, vì rằng ngôn ngữ trong chữ viết Ashoka Brahmi là gần với
tiếng Pali, một trong họ ngôn ngữ Prakrit. Tiếng Pali là tiếng đã chết, không
còn được ai nói nữa (tương tự như chữ Latin cổ).
Cho đến một ngày, một trong những thư tín ông thường
nhận được từ khắp nơi của nhiều người khắp Ấn độ gởi đến ông khi họ tìm ra hiện
vật mới, là từ một kỹ sư làm việc ở Allahabad tên là Edward Smith. Ông Smith
đang làm việc, đo địa hình ở trung tâm Ấn độ. Prinsep nhờ Smith đến địa điểm
khảo cổ Sanchi, gần thành phố Bhopal để làm các mẫu fasimile về các chữ Gupta
Brahmi ở trên các hiện vật hiện chưa được dịch để gởi cho ông. Sau khi đã thực
hiện xong yêu cầu, ông Smith còn cẩn thận hơn, ông cũng làm thêm các faxsimile
ở các thành đá (stone railing) chung quanh đền thờ không dính dáng gì đến các
hiện vật quan trọng được yêu cầu.
Chính một vài các chữ cổ, ngắn Ashoka Brahmi trên
thành đá này là đầu mối để giải toàn bộ chữ trên các cột và phiến đá. Khi nhận
được, mỗi hàng viết trên một thành đá. Prinsep suy diễn là mỗi thành đá là do
một tín đồ xây tặng và mọi hàng chữ có tên tín đồ khắc vào. Tất cả các hàng chữ
trên đều có một chữ cuối giống nhau. Prinsep suy luận là đó có thể là
"danam". Nó phải có nghĩa là quà tặng, biếu cho. Một chữ thông dụng
hằng ngày ở các buổi lễ. Nếu là như vậy thì Prinsep tìm được 3 phụ âm d, n, m
và 1 nguyên âm a. Các mẫu tự này rất thông thường trong các ngôn ngữ ở Ấn độ.
Ông thử áp dụng vào các chữ trên cột tượng Delhi. Ông
đã vô cùng ngạc nhiên và vui mừng khi đọc và đoán gần trúng được dòng đầu là
"Devam piya piyadasi raja hevam aha" ("thương quí của các thần
linh, vua ra lệnh như sau"). Ông chỉ sai chữ R trong raja thay vì raja.
Lúc này là tháng 6 mùa hè, ở Calcutta rất nóng. Đa số đã đi nghĩ hè ở những nơi
mát trên cao nguyên hoặc các nơi khác. Tuy nhiên đối với Prinsep thì đầu óc và
cả tâm sức của ông đã hoàn toàn tập trung vào cột tượng, ông không thiết gì đến
những việc khác. Với một người trợ giúp giỏi chữ Phạn và các ngôn ngữ khác,
trong vòng 6 tuần làm việc liên tục ở trụ sở Hội Á châu, Prinsep đã giải đươc
toàn bộ chữ khắc viết trên cột tượng. Sau đây là một phần những gì đã viết trên
cột tượng mà Prinsep vừa giải xong ở cột tượng Delhi:
"Vua Devanampiya Piyadesi tuyên bố như sau. Vào
năm thứ 27 từ khi trẫm lên ngôi, trẫm đã chỉ dụ để cho sắc lệnh này được công
bố bằng chữ viết.
Trẫm chấp nhận và thú tội về những lỗi lầm mà trẫm ôm
mãi trong tim.
Vào năm thứ 27 trong triều đại của trẫm, trẫm đã viết
ra sắc lệnh này; Vua Devanampiya nói rằng: "hãy sửa soạn các cột đá và
khắc sắc lệnh tôn giáo này lên cột từ đây, là sắc lệnh sẽ còn mãi cho tới những
thời kỳ xa nhất trong tương lai".
Prinsep trình bày sự khám phá của mình ở Hội Á Châu
(Asiatic Society). Mọi người đi từ thích thú, tò mò, ngạc nhiên đến thán phục.
Nhưng vua Piyadesi là ai?. George Turnour, một nhà nghiên cứu ở Tích Lan nghiên
cứu về lịch sử Phật giáo gởi về Asiatic Society cho biết rằng vua Piyadesi còn
có tên là Ashoka, cháu của vua Chandragupta I. Kiểm chứng thêm cho thấy Ashoka
có trên danh sách Sanskrit các vua Ấn độ. Vậy thì đúng Piyadesi trên cột là vua
Ashoka!.
Vào năm 1915, thêm một sắc lệnh
trên đá đã được tìm thấy và trên đó có tên Ashoka, và như thế sự xác nhận nhân
vật Ashoka lịch sử đã được kiểm nhận hoàn toàn. Sau khi đã bị quên mất gần 2000
năm, một trong những vĩ nhân trong lịch sử đã được sống lại.
Sau khi giải được chữ trên ba cột
tượng trên, Prinsep rất phấn khởi và tiếp tục đọc các chữ trên hai cột tượng
mới tìm thêm được ở dọc biên giới Nepal do Hogson khám phá. Sau đó thêm một cột
tượng đã bị gãy và chôn vùi ở Delhi được khám phá và mang về Calcutta, trụ sở
Asiatic Society nơi Prinsep làm việc. Nhờ sự khám phá chữ viết trên cột tượng
và các phiến đá người ta được biết thêm nhiều về vua Ashoka.
Tiểu sử của vua Ashoka
Sinh vào khoảng năm 304 BC, là vị
vua thứ ba của triều đại Mauryan sau khi cha ông là Bindusara mất. Tên là
Ashoka nhưng tên chính thức là Devanampiya Piyadesi (Thương quí của các thần
linh, Người nhìn mọi việc với sự nhân hậu). Trong khoảng hai năm tranh giành
ngôi, có ít nhất một anh em của Ashoka bị mất. Trong năm 262 BC, 8 năm sau khi
lên ngôi, nước Kalinga (khoảng ở tiểu bang Orissa ngày nay) bị chinh phục. Sự
thiệt hại vì chiến tranh đã khiến vua Ashoka thay đổi hoàn toàn. Ông đã trở
thành một Phật tử. Và trong cuộc đời còn lại của mình đã áp dụng triết lý đạo
Phật trong việc trị nước và phát huy Phật pháp. Ông đã giúp đạo Phật truyền
khắp nước và ra các nước ngoài. Ông mất vào năm 232 BC sau 38 năm làm vua.
(4) Ashoka hồi sinh
Để hiểu rõ hơn về con người của
vua Ashoka, một phần các sắc lệnh trên đá và trên cột được lược trích ở đây,
cho phép ta thấy rõ về tư cách của vị vua này. Ông là một nhà hiền triết, người
mộ Phật, kinh thuộc tư tưởng Dhamma, kính trọng các bậc chư tăng, không sát
sinh, bảo vệ thú vật, thiên nhiên, xây nhà nghĩ và vườn công cộng cho dân và
thú trú ngụ. Tất cả các tôn giáo đều được kính trọng và đều học hỏi lẫn nhau.
Hiện nay có cả thảy 7 sắc lệnh
trên cột quan trọng nhất (và 2 sắc lệnh ngắn ở Lumbini và Allahabad) được biết
đến. Trong đó có 6 sắc lệnh giống nhau trên 6 cột tìm được, và thêm sắc lệnh
thứ 7 ở cột Delhi ngoài 6 sắc lệnh trên. Và 14 sắc lệnh trên đá được khắc lên
các phiến đá trên khắp lảnh thổ. Phiến đá ở Girna ghi lại đầy đủ các sắc lệnh
trên. Ngoài ra còn có 2 sắc lệnh trên đá chỉ có ở Kalinga, và 3 sắc lệnh ngắn,
vắn tắt ở vài nơi. Hai sắc lệnh ở Kalinga rất dài, chi tiết và cho nhiều thông
tin quí báu.
Sắc lệnh trên đá
(a) Trong quá khứ, các vua thường đi vui thú như săn bắn hoặc các trò
giải trí khác. Nhưng mười năm sau khi Devanampiya ("Thương quí của các
thần linh") đã lên ngôi, Ngài đã đi thăm viếng Sambodhi và sau đó đã thiết
lập các cuộc đi giảng Phật Pháp. Trong những cuộc đi trên, những sự việc sau
đây được làm: viếng thăm và cho quà các bậc tu hành và ẩn sỉ, viếng thăm và
tặng phẩm vàng bạc cho người già, viếng thăm dân chúng ở thôn quê, giảng dạy họ
về Phật Pháp, và bàn luận Phật Pháp với dân khi thuận tiện. Chính những điều
này làm Ngài, vua Piyadesi, hạnh phúc và coi đó như là một lợi nhuận cho vương
quốc.
(Bia đá Girna, làm năm 256 BC)
(b) Thương quí của các thần linh, vua Piyadesi, đã chinh phục người
Kalingas 8 năm sau khi lên ngôị 150,000 người đã bị đuổi đi, 100,000 đã bị chết
và nhiều người đã mất (vì những lý do khác). Sau khi dân Kalingas đã bị chinh
phục, thương quí của các thần linh đã hướng về Phật pháp, yêu quí Phật pháp và
giảng pháp. Bây giờ, trẩm cảm thấy rất hối hận đã chinh phục dân Kalingas.
Quả Thật, trẩm rất đau đớn vì sự
giết chóc, đuổi dân đã xảy ra khi một nước bị chinh phục..
…
Giờ đây, trẩm coi rằng cuộc chinh
phục bằng Phật pháp là cuộc chinh phục tốt nhất. Và cuộc chinh phục bằng Phật
pháp đã đạt được ở vương quốc này, ở biên giới, ngay cả cách xa đây 600
yojanas, nơi mà vua Hy Lạp Antiochos ngự trị, và xa hơn nữa nơi mà 4 vua tên là
Ptolemy, Antigonos, Magas và Alexander cai trị, cũng vậy ở về phía Nam giữa
những người Cholas, Pandyas và xa tận Tamraparni.
...
(Bia đá ở Kalsi, làm năm 256 BC)
(c)....
Những dân ở những xứ láng giềng
giờ tự hỏi: "Vua này có ý định gì?". Ý định duy nhất của trẩm là họ
hảy sống không còn sợ trẩm nửa, và họ tin trẩm và với trẩm chỉ có hạnh phúc
thôi chứ không còn đau khổ. Trẩm khuyến khích họ áp dụng Phật pháp vào cuộc
sống để đạt được hạnh phúc trên cỏi đời này và cỏi khác. Trẩm nói thế để trẩm
chuộc lại nợ mà trẩm đã làm và để mọi người biết rằng trẩm sẽ không thất hứa
nữa.
(Bia Kalinga, làm năm 256 BC)
(d) Devanampiya, vua Piyadesi,
nói như sau: không có tặng phẩm nào hơn tặng phẩm Dhamma, không có thân hữu nào
hơn Dhamma, không có phân phát nào hơn phân phát Dhamma, và không có liên hệ
nào hơn liên hệ Dhamma. Và Dhamma gồm rằng: đối xử đàng hoàng với người ở và
ngươi làm việc, kính mẹ và cha, rộng lượng với bạn bè, đồng hành, người thân,
tu sỉ và cư sỉ, và không sát sinh. Vì thế một người cha, con, anh em, chủ, bạn,
đồng hành hay hàng xóm đều nói: "Đây là điều tốt, nên thực hành". Một
điều tốt trên thế gian này và đạt được ân huệ lớn cho thế gian tới là bằng ban
phát tặng phẩm Dhamma.
(Bia đá Girna, làm năm 256 BC)
(e) "Thương quí của các thần
linh", vua Piyadesi, kính trọng các tu sĩ và bậc tu lãnh đạo của tất cả
các tôn giáo, và vua phong tặng họ với quà tặng và đủ loại phẩm vật, tước
phong. Nhưng "Thương quí của các thần linh", vua Piyadesi không coi
trọng những tặng phẩm và tước hiệu bằng điều này --- Là phải có sự phát triển
về cơ bản của tất cả các tôn giáo. Sự phát triển về cơ bản có thể được thực
hiện bằng nhiều cách, nhưng tất cả các cách đều có nguyên căn chính là tránh
nói quá độ, có nghĩa là, không nên ca ngợi tôn giáo mình thái quá, hay nói xấu
tôn giáo khác mà không có nguyên do. Nếu có lý do đi nữa để phê bình thì phải
làm một cách nhẹ nhàng. Nhưng tốt hơn vẫn là kính trọng các tôn giáo khác. Làm
như vậy thì tôn giáo của mình được lợi, cũng như các tôn giáo khác. Trong khi
nếu làm ngược lại, thì sẽ mang hại đến chính tôn giáo mình và các tôn giáo
khác. Những ai khen quá nhiều tôn giáo mình, do một niềm tin quá độ, và chỉ
trích các tôn giáo khác với ý nghĩ là "Để tôi làm rạng danh tôn giáo
tôi", thật ra chỉ là làm hại chính tôn giáo mình. Vì thế, sự tiếp xúc giữa
các tôn giáo là điều tốt. Mọi người nên lắng nghe và kính trọng niềm tin và
điều tốt từ các tôn giáo khác. "Thương quí của các thần linh", vua
Piyadesi, mong muốn rằng, mọi người sẽ học được những điều tốt từ tất cả các
tôn giáo.
(Bia đá Girna, làm năm 256 BC)
Sắc lệnh trên cột
(a) Sau hai mươi năm lên ngôi,
"Thương quí của các thần linh" (devanampiya), vua Piyadesi, đã đến
thăm và tôn thờ nơi đây bởi vì nơi đây, Đức Phật, nhà hiền triết của bộ tộc
Sakyans, sinh ra. Vua đã làm một tượng đá và cột đá dựng lên. Và bởi vì Đức
Phật đã sinh ra tại đây, làng Lumbini được miễn thuế và chỉ phải trả 1/8 sản
lượng.
(Cột ở Lumbini, nơi đức Phật sinh
ra, làm năm 249 BC)
(b) Thương quí của các thần linh,
vua Piyadesi, nói rằng: Dọc theo các con đường, trẩm đã trồng các cây bàng để
chúng có thể cho bóng mát cho thú vật và dân chúng, và trẩm cũng trồng các vườn
xoài. Ở mổi khoảng cách 8 //krosas//, trẩm đã đào giếng và xây những nhà nghĩ,
và ở nhiều chổ, trẩm đã ra lệnh làm các trạm có nước để cho thú vật và dân
chúng dùng. Nhưng những điều này chỉ là kết quả nhỏ thôi. Những việc làm dân
chúng hạnh phúc đã được các vua trước làm. Ta cũng đã làm như vậy để có mục
đích là, dân chúng có cơ hội áp dụng Phật pháp vào đời sống.
(Cột Delhi, làm năm 243 B.C)
(c) Thương quí của các thần linh,
vua Piyadesi đã nói như sau: Hai mươi sáu năm sau khi ta lên ngôi, ta ra lệnh
nhiều loại thú vật được bảo vệ - các loài két, //aruna//, ngỗng, vịt trời,
//nadimukhas, gelatas//, dơi, kiến chúa, cá không xương, rùa, sóc, nai, bò.. bồ
câu và tất cả các loài thú vật 4 chân không có ích hay không ăn được... Nơi trú
của các sinh vật không được đốt và rừng không được đốt không lý do hay để giết
thú vật.
(Cột Delhi, làm năm 243 B.C)
(Chú thích: những tên hay chữ
giữa 2 dấu // là những từ cổ hiện nay chưa hiểu được nghĩa của chúng)
(5) Ashoka và di sản
Ashoka là một vị vua gương mẫu
trong lịch sử thế giới. Trong vương quốc của ông, tất cả nhân dân đều được đối
xử nhân hậu, các sinh vật được bảo vệ, không có sự sát sinh kể các các thú vật
nhỏ bé nhất. Ông đã ban những đạo luật áp dụng những lời dạy của dức Phật trên
toàn vương quốc rộng lớn từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Những lời lẽ trong
sắc lệnh của ông cho thấy rõ về con người của vị vua này. Người ta biết nhiều
về ông hơn hết các vị vua khác trong lịch sử Ấn độ.
"Amidst the tens of
thousands of names of monarchs that crowd the columns of historỵ.. the name of
Ashoka shines, and shines almost alone, a star" (H.G Wells, Sử gia Anh,
tác giả bộ sách "History of the World")
"Trong giữa cả chục ngàn tên
họ của các vua các triều đại đông đúc trên các trang cột trong lịch sử.. Tên
của Ashoka soi sáng, và hầu như soi sáng một mình, một ngôi sao"
Mặc dầu nước Ấn hiện nay theo đạo
Ấn giáo và Hồi giáo nhưng trên quốc kỳ của Ấn độ là hình bánh xe luân hồi
(dhammachakra) gần tượng sư tử trên cột tượng mà hoàng đế Ashoka đã dựng lên
hơn 2000 năm trước đây. Người Ấn đã rất hảnh diện với vị vua gương mẫu và nổi
tiếng này. Ông đã để lại một di sản quí báu cho nhân loại.
Ông gởi các cư sĩ đạo Phật đi
truyền tư tưởng Phật đi các nước. Nhờ ông mà đạo Phật đã còn và phát triển qua
Tích Lan, Miến điện, Thái lan, Cam Bốt, Lào, Việt Nam, Trung Quốc, Đại Hàn,
Nhật Bản. Di sản của ông thật là to lớn. Ông cũng gởi tu sĩ lên các nước phương
Bắc và qua phương Tây và có ảnh hưởng đến một số nhà hiền triết ở Hy Lạp nhưng
đạo Phật đã không bám rễ lâu dài ở những nơi đó. Theo Lê Mạnh Thát (4) thì nhà
sư Phát Quang có thể là người truyền đạo Phật đầu tiên ở Việt Nam do vua Ashoka
gởi đi qua nước chung quanh. Chữ Đồng Tử và Tiên Dung (con vua Hùng, khoảng thế
kỷ 3 trước công nguyên) không phải là hai nhân vật trong huyền thoại mà là hai
phật tử đầu tiên ở Việt nam sau khi thụ Pháp từ nhà sư Phát Quang.
(6) Lời Kết
Sau khi đã đọc và giải các dòng
chữ trên các cột tượng, Prinsep tiếp tục đọc các khám phá mới như trên phiến đá
tìm được ở Dhauli, tiểu bang Orissa gần Calcutta. Một số chữ và dòng viết đã
mòn và mất, tuy nhiên ông cũng đọc trên phiến đá này nhắc đến về các vị vua ở
tận bờ Địa Trung Hải như Antiochus, Ptolemy chứng tỏ các vị vua này đã biết đến
vua Ashoka (xem bản dịch bia đá ở Kalsi đoạn trên).
Đây là một chi tiết quan trọng
cho biết vua Ashoka cùng thời với vua Ptolemy ở Ai Cập mà sữ liệu có chép đầy
đủ hơn. Ông rất phấn khởi và cố gắng tìm và tái tạo lại những dòng chữ đã mất.
Không lâu sau đó, thêm một phiến đá to lớn có chữ cổ Ashoka Brahmi ở Girna, gần
Gujerat được biết đến, Prinsep một lần nữa chú ý để đọc và nhận ra hai bản ở
phiến đá Dhauli và Girna là giống nhau, mặc dầu chúng cách nhau hàng ngàn dậm,
một ở phương Tây và một ở phương Đông. Lúc này thì tiếng tăm của Prinsep đã lớn
ở khắp Ấn độ, ông khẩn cấp nhờ chính phủ cho người đến Gugerat để tìm kiếm và
làm bản faxsimile tốt hơn. Chính phủ vui lòng và đã khẩn cấp gởi người tới
Girna để lấy thêm thông tin.
Nhưng khi bản faxsimile đến trụ
sở Hội Á Châu thì Prinsep đã lên tàu một ngày trước đó trở về Anh để trị bệnh.
Ông đã yếu sức và tâm thần đã suy đồi sau những năm say mê tận tuỵ khám phá to
lớn trong sử học. Năm sau ông suy tâm, đi đến điên loạn và mất ở Anh.
Ở trung tâm thành phố Calcutta,
dọc bờ sông Hằng (Ganges), gần trụ sở Hội Asiatic Society, có một bức tượng mà
du khách có thể viếng đến, nếu để ý tới. Đó là bức tượng của nhà khoa học James
Prinsep mà nước Ấn độ đã dựng lên tưởng nhớ công trình khám phá to lớn về khảo cổ
học. Trong sách du lịch hướng dẫn về Ấn độ của Lonely Planet xuất bản hiên nay,
có đề cập đến nơi này. Nếu có dịp, bạn nên viếng thăm nơi đây.
Ca dao Việt nam ta thường nói
Trăm năm bia đá thì
mòn
Ngàn năm bia miệng
vẫn còn trơ trơ
có ý nghĩa thâm thuý về hạnh
phẩm, tiếng tăm của con người được tồn giữ qua dân gian bền lâu hơn cả bia đá.
Tuy vậy, vua Ashoka là trong trường hợp hi hữu, với "bia đá" của ông
mặc dầu trải qua hơn nhiều trăm năm, đã mòn nhiều, nhưng may mắn thay tiếng tăm
của ông đã được sống lại và từ đó (thế kỷ 19) đến nay đã được sống lại trong
"bia miệng" của nhân loại. Đó cũng là nhờ tri thức và sự tận tuỵ của
một nhà khoa học khảo cổ đặc biệt.
Ảnh : Chữ Ashoka Brahmi trên
phiến đá Girna ở Gujerat.
Tham khảo
(1) John Keay - India discovered,
W. Colin Co. Ltd., 1988
(2) Ven. S. Dhmamika - The edicts
of King Ashoka, The Wheel Publication no. 386/387, 1993, Kandy, Sri Lanka. Xem
http://www.cs.colostate.edu/~malaiya/ashoka.html
(3) Will Durant - Our Oriental
heritage, New York, 1935.
(4) Lê Mạnh Thát - Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1 –
Từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế, Nxb Thuận Hoá, 1999.
NGUYỄN
ĐỨC HIỆP
No comments:
Post a Comment