Dưới
thời Nguyên, Trung Quốc mang binh thuyền tấn công Nhật Bản bị thất bại; thời
Vĩnh Lạc triều Minh, hạm đội của Trịnh Hòa dương oai tại vùng Ðông Nam Á, việc
làm chỉ được tiếng, nhưng tốn kém quá nhiều, có lần bị giết 170 người tại Trảo
Oa [Java] (1), nên cuối cùng đến đời Tuyên Ðức chương trình này đành phải dẹp
bỏ. Suốt hai triều đại Minh, Thanh; quân Nhật [Nụy] thao túng cướp phá vùng
biển, Trung Quốc chỉ phòng thủ trên bờ và ven biển cũng không xong, nên không
màng đến biển cả. Bằng cớ ngay cảc đảo lớn giàu tài nguyên như Ðài Loan, Bành
Hồ, được liệt vào ngoại quốc trong Minh Sử (2)! Biển lúc bấy giờ là mối
hệ lụy, nên Trung Quốc chủ trương phòng thủ thụ động trên bờ, bỏ mặc đại dương
không chiếu cố đến. Sách lược này được phản ảnh một cách cụ thể trong trường
hợp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang xin chế tạo nhiều thuyền để ra
biển bắt cướp; bị vua Gia Khánh bác và khẳng định quốc sách là phòng thủ tại
cảng và truy lùng những người trên bờ ngầm mua bán hợp tác với bọn cướp:
Ngày
2 Kỷ Tỵ tháng 12 năm Gia Khánh thứ 12 [30/12/1807]
…..
Còn trong tấu triệp Ngô Hùng Quang trình bày rằng ‘ Thuyền cướp qua lại đợi chờ
mới liên lạc được với bọn gian trên bờ, nếu thuyền binh khẩn trương theo tung
tích truy nã, thì bọn chúng không thi thố được thủ đoạn. Vậy muốn ngăn tiếp tế,
nên tu tạo nhiều thuyền, xuất dương truy bắt.’
“Ðiều
này không đúng, về bọn cướp biển, gạo, nước, thuốc súng đều nhờ vào trên bộ.
Bọn giặc trên bờ và dưới nước vốn quen nhau, ngầm giao dịch, cũng không phải
chờ bọn cướp biển lên bờ tìm kiếm mới được tiếp tế. Tổng chi, đáng ra lệnh các
quan văn võ tại cửa biển mật cho tuần tra, nghiêm bắt, trừng trị nặng; bọn phỉ
trên bờ co rút lại, thì mới đoạn tuyệt việc tiếp tế.
Nếu
làm theo lời tâu, chế tạo nhiều thuyền bè, xuất dương đánh bắt, theo sát gót
tung tích thuyền cướp, không để cho chúng nhàn rỗi hoành hành. Nhưng không biết
rằng trên đại dương có bao nhiêu thuyền cướp để theo bén gót, vả lại trên biển
dòng nước bất đồng, gió bão không định, khó mà ra lệnh thuyền nào của ta theo
dõi thuyền nào của giặc cướp. Hãy suy nghĩ nếu bọn giặc biển không biết bọn phỉ
trên cạn, đột nhiên đến mua nước, gạo, thuốc súng, thì ai mà bán cho. Ðiều đó
khẳng định rằng việc cấm bọn phỉ tiếp tế tất phải nghiêm tra trên bờ, làm vững
rào dậu là biện pháp chính. Phúc Kiến nghiêm cấm tiếp tế tại cửa biển, thực
hiện hữu hiệu, tỉnh Quảng Ðông cần nhất luật thực hiện…...” ( Nhân Tông Thực Lục
quyển 189, trang 7)
Cùng
đề cao sách lược phòng thủ thụ động nơi ven biển, tại quyển 9, Hải Phòng,
trong Quảng Ðông Thông Chí, Tổng đốc Hác Ngọc Lân tóm tắt:
“
Phàm thuyền đến không cho đậu, đi không tiếp tế; thì dân chúng duyên hải đều
được yên gối mà ngủ.”
Với
chính sách về biển như vậy, nên từ triều Thanh trở về trước, tại biển nam,
Trung Quốc giới hạn vùng lãnh hải gần bờ; nhường phần còn lại cho An Nam, để
nước này cáng đáng việc đánh bắt cướp biển ngoài khơi. Cũng trong quyển 9, Quảng
Ðông Thông Chí, có đoạn chép về giới hạn biển giữa Trung Quốc và Việt Nam,
nguyên văn như sau:
Xung
yếu:
Từ
huyện Lạc Hội, phủ Quỳnh Châu, khởi đầu tiếp giáp với biên giới [biển] An Nam:
-Vũng
Hải Ðiều: giới hạn huyện Văn Xương
-Cảng
Phố Tiền: giới hạn huyện Hội Ðồng
-Cảng
Thần Ứng: giới hạn phủ Quỳnh Châu
-Phố
Phong Doanh: giới hạn phủ Quỳnh Châu
-Phố
Ma Ðầu: giới hạn huyện Lâm Cao
-Phố
Cung Loan: giới hạn huyện Lâm Cao
-Loan
Ðiền Hòa: Giới hạn châu Ðam
-Núi
Nga Trá: giới hạn huyện Xương Hóa
-Doanh
Bạch Sa: giới hạn huyện Cảm Ân
-Ðại
Ðộng Thiên: giới hạn châu Nhai
-Tiểu
Ðộng Thiên: giới hạn châu Nhai
-Vũng
Nha Lang: giới hạn huyện Lăng thủy
-Cửa
Song Châu: giới hạn huyện Lăng Thủy
-Thất
Thập Nhị kính: giới hạn châu Khâm
-Nha
Sơn: giới hạn châu Khâm
-Ðạm
Thủy Loan: giới hạn châu Khâm
-Doanh
Cách Mộc: giới hạn huyện Linh Sơn
-Núi
Ô Lôi: giới hạn huyện Linh Sơn
-Ao
Thanh Anh: giới hạn phủ Liêm Châu
-Ao
Dương Mai: giới hạn phủ Liêm Châu
-Ao
Bình Giang: giới hạn phủ Liêm Châu
-Thiệu
Châu: giới hạn sở Vĩnh An
-Mão
Châu: giới hạn sở Hải An
-Vi
Châu: giới hạn sở Cẩm Nang
Sau
đây xin tìm hiểu từng địa danh, trình bày theo trình tự từ gần đến xa, tức từ
hướng tây sang đông:
1.Thất
thập nhị kính: giới hạn châu Khâm.
Ðại
Thanh Nhất Thống Chí
(3) xác nhận Thất Thập Nhị Kính là 72 đường thủy chạy quanh co tại Long Môn:
Ngoài
Long Môn quần sơn nhấp nhô, chia biển ra thành 72 đường thủy đạo, theo núi
quanh co, đường nọ với đường kia có thể thông nhau, người đời thường gọi “ Long
Môn thất thập nhị kính” là tại đây.
Bản
đồ Google phóng lớn ghi vị trí Long Môn Cảng Trấn, tại tọa độ
21.726334,108.57170 ( Quí vị chưa quen, xin copy số bên cạnh, mở Google map
paste vào ô chữ nhật, rồi gõ vào hình mặt kính ô màu bên phải, thì sẽ thấy vị trí
trên bản đồ ). Qua lời tâu dưới đây của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trần Ðại Thụ thời
Càn Long, cũng xác nhận vùng Long Môn, châu Khâm, giáp với biển Bạch Long Vĩ
nước ta:
Ngày
30 Tân Mùi tháng 5 năm Càn Long thứ 15 [3/7/1750]
Tổng
đốc Lưỡng Quảng Trần Ðại Thụ tâu:
“
Vùng Long Môn, Khâm Châu Quảng Ðông giáp giới với biển Bạch Long Vĩ, thuộc An
Nam. Thuyền buôn nội địa [Trung Quốc] qua lại gặp những sự cố, hoặc những lính
tráng đào ngũ trốn tránh tại nơi đây, ta cho là biển của nước Di, nên từ chối
không phòng ngự………. Nhận được chiếu chỉ:
“Ðiều
thấy đúng, đã hiểu rõ.” ( Cao Tông Thực Lục quyển 365, trang 34)
Cũng
cần lưu ý rằng địa danh Bạch Long Vĩ là một doi đất nhô ra biển, giống như đuôi
rồng, tại tọa độ 21.49588,108.230438, chứ không phải là đảo Bạch Long vĩ.
Vùng đất ven biển này và cả khu Giang Bình, Hoàng Trúc; do người Pháp nhường
cho nhà Thanh sau hòa ước Thiên Tân năm 1885; vua Quang Tự xác nhận việc nhường
đất qua văn bản dưới đây:
Ngày
26 Ðinh Vị tháng 4 năm Quang Tự thứ 14 [5/6/1888]
Dụ
các Quân cơ đại thần:
….Ðịa
phương châu Khâm rộng rãi, lần này định biên giới, Ðại thần họ Vương (4) thuộc Tổng lý các
quốc sự vụ nha môn cùng Sứ thần Pháp qua lại biện luận , mới đem các xứ Bạch
Long Vĩ, Hoàng Trúc, Giang Bình nhất luật đưa về Trung Quốc; từ nay về sau chốn
hiểm yếu, đặt việc phòng thủ rất quan trọng.. (Ðức Tông Thực Lục
quyển 254, trang 14-15)
2.
Nha Sơn: giới hạn châu Khâm
Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí (4) cho biết Nha sơn cách Long Môn 34 km về
phía đông:
Núi
Nha Sơn [牙山島]: núi ở ngoài biển, phía
đông cách Long Môn 60 lý [34 km]; giữa biển nhô lên 3 ngọn núi, chiều ngang
hàng chục lý, hình như 3 chiếc răng. Gần Nha Sơn 20 lý [11.6 km] có mũi Kim Cổ,
phía đông có vũng Ô Lôi, phía tây có núi Mã Yên, đều là cảng, có thể đậu thuyền
ngoài biển.
Qua
bản đồ Google thấy hình dáng Nha Sơn như 3 chiếc răng chìa ra biển, tại tọa độ
21.701934,108.622856
3.
Ðạm Thủy Loan:giới hạn châu Khâm
Bản
đồ Google xác nhận Ðạm Thủy Loan hình giống đường vạch chìa ra biển, tại
tọa độ 21.719477,108.651695
4.
Doanh Cách Mộc: giới hạn huyện Linh Sơn
Vị
trí doanh Cách Mộc, không rõ; tuy nhiên huyện Linh Sơn tại phía đông châu Khâm.
5.Núi
Ô Lôi: giới hạn huyện Linh Sơn
Ðại
Thanh Nhất Thống Chí
(5) chép về Ô Lôi lãnh như sau:
Ô
Lôi lãnh:
phía đông nam châu Khâm 160 lý [92 km], còn có tên là Ô Lôi môn, nhô lên từ
biển; vì vị trí hiểm trở nên được đặt binh phòng giữ. Theo Châu Chí mạch
núi từ núi Na Mộ chạy quanh co tạo thành Thập Nhị lãnh rồi ra biển, qua trước
miếu Phục Ba, thủy trình vào phủ Liêm Châu qua đây.
Trên
bản đồ Google hiện có Ô Lôi thôn, là một bán đảo tại tọa độ
21.613707,108.735981
6.Ao
Thanh Anh: giới hạn phủ Liêm Châu
Dưới
thời Minh, tác phẩm Trù Hải Ðồ Biên của Tổng đốc Hồ Tôn Hiến, còn
lưu lại một số bản đồ duyên hài, trong đó có bản đồ vùng biển châu Khâm.
Tại bản đồ này, cũng ghi lại các địa danh được đề cập ở trên như: Thất Thập Nhị
Kính,[-3-], Nha Sơn [-4-], Ô Lôi Sơn [-5-] . Ngoài ra còn ghi vị trí Thanh
Anh trì tại [6], đây là ao nuôi ngọc trai ngoài biển. Cần lưu ý, phương
pháp thể hiện bản đồ Hồ Tôn Hiến trái ngược với bản đồ ngày nay; ở chỗ phía
trên chỉ hướng nam, phía trái chỉ hướng đông và tỷ lệ xích cũng không hoàn toàn
chính xác; tuy nhiên đây là tác phẩm cổ trên 500 năm về trước, cũng cần được
tham khảo. Bản đồ Google không ghi ao Thanh Anh, xin suy ra từ bản đồ Hồ Tôn
Hiến để tạm chấm tọa độ: 21.601258,108.802414
Bản
đồ vùng biển châu Khâm của Hồ Tôn Hiến:
Phiên
âm tên các đảo và địa danh cần lưu ý:
-1-
Ðại Lộc Ðôn.
-2-
Tiểu Lộc Ðôn
-3-
Thất Thập Nhất Kính
-4-
Nha Sơn
-5-
Ô Lôi Sơn
-6-
Thanh Anh Trì
-7-
Vùng biên giới nước An Nam
-8-
Thành châu Khâm
7.
Ao Dương Mai: giới hạn phủ Liêm Châu
Trên
bản đồ vùng biển châu Liêm của Tổng đốc Hồ Tôn Hiến có ghi nhận hồ ngọc trai
Dương Mai trì tại [-1-] (còn gọi là Dương Hải trì). Riêng bản đồ Google không
chép, suy ra từ bản đồ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ: 21.611472,108.850479
8.
Ao Bình Giang: giới hạn phủ Liêm Châu
Bản
đồ Hồ Tôn Hiến ghi Bình Giang Trì tại [-4-], riêng Google không ghi, căn
cứ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ 21.610196,108.904724
9.Thiệu
châu: giới hạn sở Vĩnh An
Bản
đồ Hồ Tôn Hiến ghi Thiệu Châu tại [-6-], riêng Google không ghi, nên căn cứ Hồ
Tôn Hiến tạm chấm tọa độ 21.582104,108.980255
10.Mão
châu: giới hạn sở Hải An
Bản
đồ Hồ Tôn Hiến ghi Mão châu tại [-7-], riêng Google không ghi, nên căn cứ Hồ
Tôn Hiến tạm chấm tọa độ 21.59232,109.049606
Bản
đồ vùng biển phủ Liêm Châu của Hồ Tôn Hiến:
Phiên
âm tên các đảo và địa danh cần lưu ý:
-1-Dương
Mai Trì
-2-Xà
Sơn
-3-Xà
Dương Châu
-4-Bình
Hà Trì
-5-Châu
Mẫu Hải
-6-Thiệu
Châu
-7-Mão
Châu
-8-Liêm
Châu Phủ
11.
Vi Châu: giới hạn sở Cẩm Nang
Quảng
Ðông Thông Chí
xác nhận đảo Vi Châu, tại sở Cẩm Nang, giáp giới với biển Việt Nam. Ðảo này vị
trí tại phía nam huyện thành Hợp Phố khoảng 200 lý, chu vi 70 lý; xưa là sào
huyệt giặc cướp, đời Minh Vạn Lịch di dân đến canh tác (6).
Thanh
Thực Lục
cũng xác nhận thêm Vi Châu là cửa ngõ của 3 phủ Cao Châu, Lôi Châu, Quỳnh Châu;
mặt phía tây thuộc biển Việt Nam:
Ngày
18 tháng 3 năm Ðạo Quang thứ 13 [9/3/1833]
……..Lại
căn cứ theo Cao Nghi Dõng khám xét biển phía đông nam Long Dương, thuộc 3 phủ
Cao, Lôi, Quỳnh, trong đó có đảo Vi Châu làm cửa ngõ, mặt phía tây thuộc Việt
Nam, thuyền cướp thường trốn tại núi Cẩu Ðầu; cần phải chặn việc tiếp tế lương
thực, thuốc súng; ngăn con đường vượt biên giới ăn cướp. Lại dò biết thuyền
cướp có hơn 1 chục chiếc, trốn tránh xa tại châu Giáp, núi Cẩu Ðầu thuộc đất Di
[Việt
Nam], quân ta không quen đường cát, khó có thể đi xa. Ðáng phải thông báo
cho Việt Nam, xua đuổi ra đánh. Duy cương vực Hoa, Di có phân biệt, phải biết
rõ tình hình, thì mới có thể đánh bắt không để sót….. (Tuyên Tông Thực
Lục, quyển 230, trang 6-8)
Riêng
bản đồ Google ghi nhận Vi Châu đảo tại tọa độ 21.046695,109.117584
12
Vũng Hải Ðiều: giới hạn huyện Văn Xương
Bản
đồ Google không ghi vũng Hải Ðiều, riêng Văn Xương thị thuộc tỉnh Hải Nam, tọa
độ 19.538437,110.807419
13.Cảng
Phố Tiền: giới hạn huyện Hội Ðồng
Ðại
Thanh Nhất Thống Chí (7)
xác nhận cảng Phố Tiền tại phía bắc huyện Văn Xương 150 lý:
Cảng
Phố Tiền: tại phía tây bắc huyện Văn Xương 150 lý [87 km], sông từ huyện Quỳnh
Sơn chảy đến hợp với sông Tam giang để ra biển. thương thuyền tập trung nơi đây
tạo thành nơi yết hầu của huyện.
Riêng
bản đồ Google ghi nhận Phố Tiền cảng tại tọa độ 20.042386,110.510101
14.Cảng
Thần Ứng:giới hạn phủ Quỳnh Châu
Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí (8) xác định vị trí cảng cách huyện Quỳnh
Châu 10 lý về phía bắc:
Cảng
Thần Ứng:
tại phía bắc huyện Quỳnh Châu 10 lý [5.8 km], còn có tên là cửa khẩu Bạch Sa. Dư
Ðịa Kỷ Thắng chép bến Bạch Sa tại huyện Quỳnh Châu thuyền các nước Phiên tụ
tập; bờ biển khuất khúc thuyền lớn không thông. Vào thời Kiến Viêm soái xứ
Quỳnh Châu là Nghiêm Quang Tổ cho khai cảng để tiện việc buôn bán, cảng tuy mở
nhưng cát lại lấp; vào năm Thuần Hy Mậu Thân, một trận cuồng phong xẩy ra, tạo
thành cảng lớn hơn trước, nên có tên là cảng Thần Ứng.
Google
không ghi vị trí cảng Thần Ứng, nhưng có ghi Quỳnh Sơn khu tại tọa độ
19.991417,110.348053
15.
Phố Phong Doanh: giới hạn phủ Quỳnh Châu
Không
rõ vị trí.
16.
Phố Ma Ðầu: giới hạn huyện Lâm Cao
Không
rõ phố Ma Ðầu, tuy nhiên Google ghi nhận vị trí Lâm Cao huyện tại tọa độ
19.915257,109.706726
17.Phố
Cung Loan: giới hạn huyện Lâm Cao
Không
rõ vị trí.
18.
Ðiền Hòa loan: giới hạn châu Ðam
Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí (9) chép là cảng Hòa Ðiền, tại phía bắc châu
Ðam 45 lý:
Cảng
Hòa Ðiền:
tại phía bắc châu Ðam 45 lý [26 km]; lại có cảng Nga Man tại phía bắc châu 40
lý [23 km], tại đó có 36 khe, khi thủy triều lên thì nước tràn ngập, khi thủy
triều xuống thì nước khe chảy ra trong vắt. Lại có cảng Hoàng Sa tại phía tây
bắc châu 40 lý [23 km], gần với cảng Nam Khê. Châu Chí chép trong châu
có hàng chục cảng, nhưng tại Hòa Ðiền bị giặc cướp quấy nhiễu nhiều, vì từ Lâm
Cao xuống chỉ có cảng này có thể lấy được nước nhưng không có thành đá để ngăn,
lại còn cách xa châu lỵ.
Riêng
bản đồ Google không ghi cảng Ðiền Hòa, nhưng xác nhận Ðam Châu cảng tại tọa độ
19.726635,109.285126
19.
Núi Nga Trá: giới hạn huyện Xương Hóa
Bản
đồ Google không ghi núi Nga Trá, nhưng xác nhận cảng Xương Hóa tại tọa độ
19.326695,108.646545
20.
Doanh Bạch Sa: giới hạn huyện Cảm Ân
Bản
đồ Google không ghi doanh Bạch Sa, nhưng xác nhận Cảm Thành trấn tại tọa độ
18.848787,108.631439
21.
Ðại Ðộng Thiên, Tiểu Ðộng Thiên: giới hạn châu Nhai
Tại
vùng châu Nhai, gần Tam Á, Google ghi nhận địa danh Ðại Tiểu Ðộng Thiên tại tọa
độ 18.293906,109.150887. Ngoài ra một đạo dụ của vua Ðạo Quang trong Thanh
Thực Lục, xác nhận rằng bãi Ðồi Mồi [Ðại Mạo châu] thuộc vùng
Tam Á, châu Nhai, gần Ðại Ðộng Thiên, tiếp giáp với biển Việt Nam:
Ngày
30 Nhâm Dần tháng 11 năm Ðạo Quang thứ 12 [20/1/1833]
Lại
dụ:
…...
Lại cứ Lý Tăng Giới xưng rằng bọn Phó tướng Lý Hiền tuần tiễu đến bãi Ðại Mạo
[đồi mồi] vùng biển ngoài Nhai Châu, Tam Á, chỗ này tiếp giáp với biển Di Việt
Nam, thấy 3 thuyền phỉ, mỗi thuyền 1, 2 ngàn người, bèn cho đuổi bắt….. (Tuyên Tông Thực Lục
quyển 226, trang 28-30)
22.Vũng
Nha Lang, cửa Song Châu: giới hạn huyện Lăng Thủy
Bản
đồ Google không ghi vũng Nha Lang, cửa Song Châu; nhưng ghi nhận huyện tự trị
Lăng Thủy Lê tộc tại tọa độ 18.49654,110.069275
Không
kể vùng biển gần các phủ Liêm Châu và Quỳnh Châu được đề cập ở trên, những biển
xa như quần đảo Hoàng Sa của ta, mà người Trung Quốc xưa thường gọi là Thiên Lý
Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường, thì sử chí của họ chỉ đề cập một cách mơ hồ theo
lời truyền ngôn. Các nhà khảo cứu nước này thường thuật lại qua lời kể của những
người đi biển bị nạn, nên câu chuyện được thêm thắt vào đầy vẻ ma quái hoang
đường. Chẳng hạn, sách Hải Ngữ [海語]
của Hoàng Trung đời Minh, chép về Vạn Lý Thạch Ðường như sau:
Vạn
Lý Thạch Ðường tại phía đông biển Ô Trư và Thạch Trư. Tại đó tuy trời nắng
nhưng vẫn âm u, không giống như trong cõi trần; thổ sản nhiều xà cừ. Chim có
nhiều loại quỉ xa, có thứ 9 đầu, có thứ 3,4 đầu, rãi rác khắp biển; tiếng kêu
gào ầm ỹ đến mấy dặm; tuy kẻ ngu và loại hung hãn cũng xúc động buồn thảm, mồ
hôi toát ra. Châu sư hàng hải trên thuyền lỡ tay lái thất thế, đâm vào đá tảng,
thì hàng trăm mạng biến thành quỉ!
Tuy
nhiên mới đây, để phụ họa cho việc tranh dành biển đảo, những nhà nghiên cứu
viết theo đơn đặt hàng tại Trung Quốc cố tình gán ghép Trường Sa Thạch Ðường
vào phủ Quỳnh Châu tức đảo Hải Nam, hoặc châu Vạn của phủ này. Nhắm vạch trần
luận điệu sai trái đó, xin dịch nguyên văn cương vực phủ Quỳnh Châu và Châu
Vạn, được chép trong Quảng Ðông Thông Chí để thấy một cách hiển nhiên
rằng Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường hay quần đảo Hoàng Sa, không thể nằm
trong đó được:
Phủ
Quỳnh Châu: Phía nam là Chiêm Thành, tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông là
Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường, phía bắc là huyện Tư Văn, phủ Lôi
Châu.
Châu
Vạn: Bề ngang rộng 205 lý, dọc 120 lý; đông đến bờ biển 25 lý, tây đến
núi Giá Cô Ðề 180 lý bên ngoài dân Sinh Lê sống, nam đến bờ biển 25 lý, bắc đến
biên giới huyện Lạc Hội 95 lý.
*
Sự
việc xẩy ra mỗi thời mỗi khác; từ đầu thế kỷ 20 đến này, sau khi phát hiện tiềm
năng khoáng sản nơi đại dương, người Trung Quốc tìm mọi cách tranh dành biển
đảo. Cố tình quên đi sự thật lịch sử việc triều đình Trung Quốc công nhận vùng
biển của Việt Nam, đã biết bao lần gửi chỉ dụ sang kêu gọi đánh dẹp giặc biển
ngoài khơi; nay họ vẽ bản đồ lưỡi bò đòi dành 80% vùng biển đông, to tiếng rằng
đó là bằng chứng không thể tranh cải được! Ðến đây, nhân vấn đề thời sự biển
đảo, chợt nhớ đến Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, vốn mang dấu ấn từ hai
dân tộc; người viết bèn bắt chước “tập Kiều”, với câu thơ Thúy Kiều trách vấn
Tú Bà như sau:
“Giờ
ra thay bực đổi ngôi,
Dám
xin gửi lại một lời cho minh.”
HỒ BẠCH THẢO
______________________
Chú
thích:
1.Minh
Thực Lục, Hồ Bạch Thảo dịch, Hà Nội: NXB Hà Nội, tập 1, văn bản 226.
2.Minh
sử, quyển 323, mục Ngoại quốc.
3.Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, quyển 384, phủ Liêm Châu.
4.Viên
Ðại thần tên là Vương Chi Xuân.
5.Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 384.
6.Quảng
Ðông Thông Chí, sđd, quyển 9.
7.
Khâm Ðịnh Ðại
Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 350.
8.Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 350.
9.Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí, sđd, quyển 350.
No comments:
Post a Comment