Toàn
cầu hóa văn hóa không còn vương vấn trong ý nghĩa về sự chọn lựa rạch ròi có/
không, nên/không nên… mà nó là tất yếu. Trong vòng xoay tất yếu ấy, con người
phải chấp nhận chung sống cùng nó. Do đó, toàn cầu hóa văn hóa xuất phát và ăn
nhập với toàn cầu hóa kinh tế. Ngày nay, người Việt Nam có thể sử dụng món gà
rán KFC, hay đồ uống Pepsi trong các cửa hiệu danh tiếng McDonalds,
mà không cần phải vương vấn ý nghĩ về nguồn gốc của những phẩm vật ấy.
Chiếc áo dài của người Việt Nam với 3 vòng chuẩn mực vốn là niềm tự hào dân tộc Việt Nam, nhưng ước vọng cục bộ ấy không còn nữa, khi một người Mỹ, một người México hay một người Nhật mặc nó, dù biết rằng họ chẳng thể tạo ra sự duyên dáng đặc biệt như con gái Việt Nam. Đơn giản vì, chiếc áo dài Việt Nam đã trở thành Chiếc áo dài toàn cầu hóa (Global- long dress). Chiếc điện thoại di động ngày nay đã xóa nhòa ranh giới xuất xứ cũng như giai tầng xã hội sử dụng nó, giờ đây một sinh viên Việt Nam hoàn toàn có thể gửi ảnh của mình cho người bạn ở Pháp, Anh, Mỹ, miễn là chúng có cùng chế độ và công cụ sử dụng. Một chiếc Ipad hay một công cụ đọc sách Kindle có thể tạo nên làn sóng văn hóa sửng sốt, thu hút lượng người sử dụng khổng lồ mỗi năm, đơn giản, vì nó góp phần hòa trộn và đặt văn hóa các quốc gia gần nhau (Mix- culture).
Tất yếu, khi đã có toàn cầu hóa về văn hóa, thì sẽ có toàn cầu hóa văn học. Nếu như cách đây 20 năm trở về trước, để có thể chuyển dịch một tác phẩm văn học từ nước ngoài vào trong nước, dịch giả phải mất rất nhiều thời gian và công sức. Người chuyển dịch văn bản phải truy cập thông tin qua các sách báo in ấn truyền thống, hoặc trực tiếp sang tận nơi có tác phẩm in ấn để mang về nước. Thậm chí, có tác giả văn học đạt giải Nobel mà sau 10, thậm chí 20 năm, tác phẩm mới được giới thiệu tới bạn đọc qua bản dịch, phản ánh sự trậm trễ và xa lùi tính thời sự về thông tin. Cũng vì sự hạn chế ấy về thông tin liên- tuyết, nên các dịch phẩm sau khi ấn hành thường tạo nên cơn sốt hàng mạnh mẽ; có tác phẩm được tái bản tới hàng chục lần mà vẫn cứ sốt hàng. Tuy nhiên, chỉ sau 10 năm trở lại (tính từ năm 2000), với sự lớn mạnh chưa từng thấy của Internet tại Việt Nam, thì tính hai mặt của toàn cầu hóa văn học đã xuất hiện.
Có
thể nói, chưa khi nào, văn học Việt Nam chứng kiến sự “vượt biên” nhanh chóng
như 10 năm đầu thế kỷ XXI. Một tác giả đạt giải Nobel hay
giải Goncourt hôm nay, thì chỉ cần 1 đến 2 tháng sau, tác phẩm của họ
đã được giới thiệu đến bạn đọc trong nước, thậm chí, những tác phẩm thuộc thế
giới thứ ba vốn là món hàng xa xỉ với văn học Việt Nam, thì cũng dần dần xuất
hiện trong các ấn phẩm dịch. Điều ấy phản ánh tính bất khả cưỡng của toàn cầu
hóa thông tin, toàn cầu hóa văn hóa, phản ánh khả năng phi biên giới của thông
tin Internet qua cổng tri thức chính được số hóa bằng Anh ngữ.
Nhưng
cùng với nó, người đọc cảm thấy lạc lõng trong một thế giới- sách phì độn
(Hyper-book world). Ngày nay một độc giả vào nhà sách có thể dễ dàng tìm thấy
những ấn phẩm mang hàng chữ Best seller hoặc New York Time bình chọn vẩn vơ,
quyến rũ giác quan thông qua lối PR (Public relations) nhà nghề và
khả năng in ấn chuyên nghiệp khó thể cưỡng lại. Bên cạnh đó, hệ thống máy đọc
sách điện tử cũng ra đời, tạo nên cú sock văn hóa - văn học thực sự. Người đọc
thấy mình ít nghèo hơn về tâm hồn, nhưng kèm theo đó lại là nghi ngờ bất khả
kháng, ẩn sâu bên trong ý thức, trách nhiệm của một người đọc về tác phẩm.
Người đọc đặt giá trị giải trí văn học lên trên giá trị giáo dục đạo đức nhân
cách. Vì vậy, sách xuất hiện nhiều trên thị trường, song hiệu quả đọc sách lại
là nghi vấn cần đặt ra. Thật hiếm thấy trong số sách văn học hiện nay được các
nhà xuất bản tái bản tới lần thứ hai - điều không phải là xa lạ nếu như chúng
ta trở lại thị trường sách cách đây mười năm về trước.
Tính
chất tự phát của thông tin số hóa cũng kéo theo nó là tính chất dân chủ trong
sáng tạo. Nhiều nhà văn đã tự khẳng định mình trong các blogs hay website văn
học. Nhưng dân chủ trong sáng tạo văn học không đồng nhất với tự do sáng tạo
văn học. Dân chủ trong sáng tạo, tạo ra đội ngũ sáng tác đông đảo, có thể nói
là nhà nhà làm văn, người người làm văn. Nhưng ý thức tự chịu trách nhiệm về ấn
phẩm của mình dường như mờ nhạt, nghĩa là thiếu vắng Tự do- sáng tạo. Theo tôi,
nếu sáng tạo là khai minh, là lập thức trong quan điểm của mình về những gì
chưa có, hoặc đã có nhưng còn mờ nhạt, nhà văn đi sâu vào cái mờ nhạt chưa ai
đi ấy để khẳng định mình thì là sáng tạo. Còn tự do, thiết nghĩ là hành vi tự
chịu trách nhiệm về việc/điều mình làm/sáng tạo. Một người có thể làm những
điều mình thích, sáng tạo điều mình tâm đắc, mà không có ý thức tự chịu trách
nhiệm về hành vi làm/sáng tạo ấy, thì người đó không thể xem là người tự do
trong sáng tạo. Điều này cho phép chúng ta bác bỏ những quan niệm thái quá về
quyền tự do trong sáng tạo của những cá nhân thiếu vắng - ý thức sáng tạo tích
cực. Toàn cầu hóa văn học ở Việt Nam đang đi từ dưới lên trên chứ
không phải đi từ trên xuống dưới, nó kích thích và mở rộng phạm vi
sáng tạo mang tính quần chúng, bình dân, phản ánh quyền dân chủ trong sáng tác,
góp phần mở ra khả năng sáng tạo phi-biên giới đối với những cá nhân ít điều
kiện để khẳng định mình. Tuy nhiên, mặt trái và kẻ thù của xã hội mở ấy nằm ở
chỗ, sự thừa mứa về thông tin bao giờ cũng là sự cào bằng về ý nghĩa sáng tạo
và giá trị tác phẩm. Nhiều cá nhân nhân danh sáng tạo để có chỗ đứng trong làng
văn học toàn cầu, nhưng lại không có ý niệm về việc tự chịu tránh nhiệm cho
tác phẩm của mình sau khi nó hoài thai, để rồi, những đứa con quái dị của thời
đại thì cứ ra đời, còn người sinh ra chúng thì thiếu trách nhiệm, bỏ rơi nó
trong những “túp lều” blogs dưới hình thức những cuộc cãi vã, bài bác và xuyên
tạc ý niệm của nhau.
Trong
xu hướng toàn cầu hóa văn hóa - văn học ấy, văn học Việt Nam cần phải chuẩn bị
tâm thế và một cảm quan thẩm mỹ lành mạnh trong sáng tạo cũng như trong tiếp
nhận văn học. Nếu tự do trong sáng tạo nhấn mạnh đến ý thức tự chịu trách
nhiệm về khả năng lập thức của mình trước những khoảng trống văn học,
thì, việc tiếp nhận văn học trong bối cảnh toàn cầu hóa thông tin cũng cần
thiết đặt lại vấn đề tự do - tiếp nhận. Theo đó, tự do - tiếp nhận, tức là anh
phải chịu trách nhiệm về việc bồi đắp, phát triển nhãn quan thẩm mỹ trong khi
tiếp nhận tác phẩm văn học. Tự do - tiếp nhận là chịu trách nhiệm về đánh giá
của mình trước luồng thông tin văn học mà anh hội nhập, chuyển hóa thành những
phát ngôn cụ thể. Chỉ khi ý thức về tự do - tiếp nhận được đặt ra, dọn chỗ cho
sự phán xét nghiêm túc, thì khi ấy, chúng ta mới giải quyết được vấn đề chất
lượng hưởng thụ nghệ thuật từ tác phẩm văn học. Như trên, tôi đã đề cập đến
tính chất gia nhập của toàn cầu hóa văn hóa văn học có xu hướng đi từ dưới lên
trên, đi từ giá trị hưởng thụ bình dân đến hưởng thụ cao cấp, điều này vừa tích
cực, vừa bất cập. Chất lượng nghệ thuật bị quy giản vào số
lượng lực lượng sáng tác/ tiếp nhận văn học. Điều này phản ánh quy mô lan
rộng của ý thức nhân văn trong đời sống xã hội.
Tuy
nhiên, cùng với sự chuyển hóa theo chiều ngang về số lượng trong
không gian văn học, thì chúng ta cũng đồng thời thu hẹp chiều sâu của
giá trị nghệ phẩm. Thực trạng văn học Việt Nam đương đại cho thấy,
việc kiểm soát nghệ phẩm trong ý thức tiếp nhận là vấn đề cần đặt ra nghiêm
túc. Một website văn học trong ngày có tới hàng triệu lượt xem và có tới hàng
trăm tác phẩm được đưa lên Internet cùng lúc, điều ấy tạo ra vấn nạn cần giải
quyết với nghi vấn về chất lượng văn học. Trước đây, văn học thường được đọc ở
những nơi nghiêm trang hoặc những phòng trà nghệ thuật, phản ánh ý thức hàn lâm
trong sáng tạo nghệ thuật, thì giờ đây, thay vào ý nghĩa quan trọng của việc
bồi tụ các giá trị nhân văn, thì các chủ blogs hoặc admin website văn học lại
xem ý nghĩa giải trí như một xu hướng, trào lưu đắc dụng. Trước đây các hiện
tượng như dịch thơ “vô lối”, hiện tượng cách tân nghệ phẩm đến thái quá hoặc
xướng họa những câu thơ có tính “văng mạng” cực hy hữu, thì giờ đây lại phổ
biến. Vậy, giá trị nghệ thuật đích thực nằm ở đâu? Và ý nghĩa giá trị nhân bản
trong văn học (Literary humanism) tại sao bị quy giản vào hàng thứ yếu? Tất cả
truy vấn phức tạp trên gói gọn trong một công thức: Chủ thể trong văn
học Việt Nam thiếu vắng ý thức tự chịu trách nhiệm về mình.
Vấn
đề nhân bản hiện đại trở thành chủ đề nóng cần được giải quyết. Thế kỷ 19 và
thế kỷ 20, người ta đã bàn đến vấn đề nhân bản kỹ thuật khá sâu, rộng,
thậm chí, có hẳn bộ sách nhiều tập chuyên bàn về vấn đề này như Người
và Máy: Nhập môn nhân bản kỹ thuật (3) của
hai tác giả Jean Laloup, Jean Nélis. Vì vậy, thuật ngữ nhân bản kỹ thuật
không còn xa lạ với cũng ta nữa. Nó diễn tả bản chất của con người máy móc, duy
lí, thiếu cảm xúc, thậm chí, chuyện tình cảm cũng bị kỹ thuật hóa tự
bản chất. Văn học hậu hiện đại với lối cắt dán biểu hiện phần nào sự phản ứng
của con người về vấn đề nhân bản kỹ thuật. Sống trong một đời sống thiếu vắng
cảm xúc, thì tất yếu, nó sẽ sinh ra một thời đại thiếu vắng tính người, nhường
chỗ cho sự vô cảm lên ngôi. Trong tình cảnh ấy, văn học như là “vật chứng trước
thời gian” (Trương Đăng Dung) có sức mạnh đề kháng lại bản chất kỹ thuật của
con người. Còn văn học theo đúng nghĩa là còn xúc cảm nhân bản đích thực. Vì
rằng, chẳng ai có thể sáng tạo nên những tác phẩm giá trị, khi họ đeo đẳng trên
đầu mình lợi ích vật chất đến tha hóa, hay chịu sự dẫn dụ đến “mụ mẫm” thông
qua/bằng khối óc quá tỉnh táo.
Khi
Internet phát triển mạnh, con người ít cô đơn hơn, có cơ hội mở mình ra với thế
giới bên ngoài, thì cũng là lúc con người trở nên vô cảm, tàn nhẫn nhiều hơn
theo cấp số nhân trước những tiêu cực mà đời sống số hóa mang lại.
Cuộc sống thừa mứa về vật chất, tất yếu sẽ kéo theo cơn thèm khát về chỗ dựa
tinh thần. Các nhà kinh doanh sau khi bước qua thế giới vật chất nhiều bế tắc
đã gửi tinh thần mình trong các website văn học nghệ thuật. Đây là điều đáng mừng
cho vấn đề nhân bản. Nhưng cũng lại trở thành mối ưu tư của thơ ca nghệ thuật.
Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, thì cũng tồn tại không ít tác
phẩm kém chất lượng đang mọc ra như nấm, lấn át, thậm chí, chiếm được chỗ đứng
nghệ thuật mạnh mẽ hơn các tác phẩm đích thực. Nhưng lịch sử có quy luật của
nó, tính chất tự đào thải khắc nghiệt của truyền thông số hóa sẽ gạn lọc
những hạt sạn của nghệ thuật, giữ lại giá trị cho các nghệ phẩm
đích thực, giúp làm đẹp cho đời.
Vấn
đề nhân bản thông tin kéo theo một nhịp, ăn nhập với vấn đề toàn cầu hóa. Toàn
cầu hóa sẽ cào bằng các ranh giới, thử thách nhân bản bằng thông tin phi- biên
giới. Nhưng, nó lại tạo ra cho con người cơ hội để thể hiện và khẳng định mình
một cách dân chủ hơn. Song, giữa việc bão hòa về thông tin và giá trị đích thực
của thơ ca nghệ thuật, luôn phải trải qua sự tranh đấu và tự đào thải. Khi khả
năng cảm nhận thi ca của người đọc ngày càng cao, đòi hỏi sự đột phá trong cách
thức thể hiện tư tưởng của chủ thể sáng tạo.
Bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, bản sắc văn học Việt Nam, nói sâu hơn là Việt
tính trong con người Việt Nam là gì, khi đối diện với thực tiễn toàn cầu hóa
thông tin? Câu hỏi ấy đã kèm theo nó về việc khôi phục lại ý nghĩa của câu trả
lời đã tồn tại suốt nghìn năm trong ngôn ngữ Việt Nam: Cái - Con. Chỉ
khi chúng ta ý thức rằng, chúng ta vẫn còn suy tư về ý nghĩa của từ Cái và từ
Con, là khi ấy chúng ta còn Việt tính. Bởi vì, còn ý niệm về từ Cái và Con là
còn ý niệm về khả năng tự chịu trách nhiệm trong hành vi của mình: “Con
dại cái mang”, “Cái đêm hôm ấy đêm gì”... Tiếc rằng, ý niệm Cái
và Con đang mờ dần trong dụng hành ngôn ngữ tiếng Việt, mà thay vào đó là những
âm hưởng chói tai vô nghĩa của biến thể ngôn ngữ ngoại lai, mang nặng dấu
ấn Hippy trong đời sống văn hóa. Khi nào chúng ta không còn ý
thức về mình, không còn lưu giữ ý niệm Cái - Con như một hằng số văn hóa, thì
khi ấy Việt tính bị phá sản, và chúng ta không còn là chúng ta nữa.
N.H.G
Nguồn:
vanhocquenha
No comments:
Post a Comment