“Trong âm nhạc, Văn Cao
sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ
mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần
tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm
khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư….” – (Trịnh Công Sơn)
Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao - người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn : hội họa, thi ca và âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật : hội họa, âm nhạc và thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao.
Không đợi khi xuân đến, tết
về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ : “Mùa xuân đầu tiên”
Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn
năm 1976. ( Xin quý bạn đọc vào công cụ tìm kiếm : www.google.com
, rồi đánh tên bản nhạc để có thể nghe rất nhiều ca sĩ hàng đầu hát bài : “ Mùa
xuân đầu tiên” này).
Đây là bài hát có số phận
đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang
nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa : vui ít, buồn nhiều, mừng
ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng
khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều,
cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum
họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…
Hầu như tất cả các trạng
thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này :
ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát
lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm
đang đồng cảm cùng mình…
Nghe đi nghe lại bản nhạc
này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng
ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc
“ Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.
Riêng lời bài hát đã là một
bài thơ hay :
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo
én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người .
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người .
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Rất nhiều chim én, nhiều
nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm…nhưng
sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần
làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang
vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế ? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu
quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao
nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết : “ một
trưa nắng thôi hôm nay mênh mông” :
Nhật mộ hương quan hà xứ
thị,
Yên ba giang thượng sử nhân
sầu.
(Trời về chiều tối, tự hỏi
quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng
gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời
con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui
não nùng Văn Cao nay : “ Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.
Bài hát như một điệu valse
bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang
trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm
của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu
hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ….
Chừng như đã mấy chục năm
chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về ? Chừng như gần hết cả đời người bận
chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo
xuân ? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết
thương người ? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình
? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai
biết yêu con người ? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước
mắt ? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa xuân ?
Và chừng như lâu lắm rồi
Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc
vào hàng kiệt tác ? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho
Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, ( thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15
đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc ? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị
súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù
đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ
cộng hòa ( Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca ( kể cả thơ Văn Cao cũng bị
cấm) ?
Và chừng như toàn bộ vết
thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà
nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương
chợt mở miệng ca hát : “Mùa xuân đầu tiên”
Chừng như nỗi niềm ngày 30
tháng tư năm 1975 : “có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu
người Việt Nam buồn” ( lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi
bài hát : “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao ? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi
nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua
trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng
xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh
đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế ?
Có lẽ, chính vì những điều
trên mà kiệt tác “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn
giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01- 01 – 1976, được hát trên Đài
Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm ( 1976-2000). Sinh thời, Văn
Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được
trình diễn. Sau khi ông mất ( 1995) 05 năm, “ Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi
nhà tù kiểm duyệt của chế độ.
Xin quý bạn đọc hãy nghe
nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự
ra đời của bài hát này :
“Sau khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI
ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố
đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau
này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được
dàn dựng…
Tôi còn lưu giữ được một số
tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông
không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc
rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.
Những ngày tháng sau đó,
căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng.
Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn
đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này
vì sợ “bị vỗ vai”.
Văn Cao đã sáng tác xong ca
khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.”
(trích bài “Văn Cao với ca
khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương” số 179-180)
Văn Thao tiết lộ tiếp rằng,
bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng
Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova :
“Nhưng cũng thật bất ngờ
(không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã
được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao
phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông
bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến
đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.””
Qua tiết lộ trên của anh
Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu
suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “ bị vỗ vai” hỏi
tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì ? Người viết bài này sau năm
1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại :
“Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu ( 1916-1992)
mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu
? Bèn bảo : đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à ?
Người “ vỗ vai” hất đầu cộc lộc : “Vào đi “.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao
như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân
kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn
– Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “ bố
có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu “.
Chúng ta lại được nghe
người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra
đời của “ Mùa xuân đầu tiên” :
“Đó là một đêm vào giữa
tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu.
Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm
ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc
đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.
Một giai điệu khe khẽ vang
lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn
trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một
tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ
niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì
cha lại rất ít có dịp dùng đến.
Bài hát đã được báo Sài Gòn
Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó,
được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần
Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi
lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát
thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.
Như mọi lần, trong suốt mấy
chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn
bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi
lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên
được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm
năm.”
Nhà thơ NGHIÊM BẰNG
THU HÀ ghi
THU HÀ ghi
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong
tác phẩm “ Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay
Trường Chính chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lãnh tụ Trường Chinh
cho gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “ Nhân Văn – Giai Phẩm” <
*1 *> (xem thú thích dưới bài )
Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là
trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng < *2*> ( xem chú thích cuối bài)
Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang ( cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “ Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.
Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang ( cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “ Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.
Ngay sau vụ “ Nhân Văn”,
nhà nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm
bài quốc ca, thay bài “ Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy
năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay
bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài
dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn ( vì quá tẻ nhạt) để thay thế
bài ca lịch sử của Văn Cao.
Nếu không có bài quốc ca
che chắn, có lẽ Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng,
nồng nàn, say đắm, lãng mạn tận cùng ( với các ca khúc bất diệt : “Buồn tàn
thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”, “ Thiên Thai”…) trong một Văn Cao
tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu : “
thề ăn gan uống máu quân thù” … “ đường ta đi xây xác quân thù”…đến cùng tận
khi một mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng
lục số 7165 của tổ chức ( do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức
Phin ( bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép : tao
bắn mày vì mày là Việt gian tay sai giặc Nhật ! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái
đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào
thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát…
Sau này, cả cuộc đời còn
lại, Văn Cao vô cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến
nỗi, sự sám hối quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano
những giai điệu lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối mơ”, “Bến
xuân”… nữa; vì ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có
những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô
tội của mình mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối !
Nghe nói Văn Cao còn bắn
sẩy ( bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đình Vạn và Võ Văn
Cẩm ( không biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình là cụ
Nghiêm Xuân Huyến – một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu
trong tù ?). Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết
cho điều mình tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba
mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông : “Nhân văn – Giai phẩm”…
Có lần, Văn Cao kể cho
người viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắn
tôm, với bạn tâm giao : nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng…) rằng : “ Sau vụ
Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất
cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu
hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đã toan
nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe lên trong đầu
như ánh chớp, hình bóng bà Băng ( bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc sĩ) còng
lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục sống hèn
mà trở về nuôi con…”…
Có lẽ men “cuốc lủi” làm
Văn Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp : “ Thảm nhất là khi ở nơi cải
tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là anh em ( cùng bị đi đày
lao động) lại tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu
sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho
tôi ngồi một mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành gì …”…
Ngày 30 tháng tư 1975, ngày
kết thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc
sĩ kể lại, Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân
rầm rập trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã
hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “ tù tại
ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng ?
Dồn nén khát vọng tự do mấy
chục năm, dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân
mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn
nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt
một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt
yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai
điệu Văn Cao “ Mùa xuân đầu tiên” chăng ?
Thành ra, “Mùa xuân đầu
tiên” chính là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát,
nỗi hoan ca ngục tù gặp nắng gió mênh mông…?
Xin xem thêm tài liệu tổng
kết vụ án “ Nhân Văn – Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại
đã in công khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt
ba mươi năm dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường
nào < *3 *> ( xem chú thích cuối bài)
Qua lời tự thú của vị đại
tá công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng
tội NVGP bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên chính quê hương mình của
Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước quyền công dân, tước hết
quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải
tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua trận Việt Nam cộng
hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm 1975…
Không thấu hiểu hoàn cảnh
sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn
Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù
vừa tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông , với
tiếng gà trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “ Mùa xuân đầu tiên” này…
Chính nỗi đau buồn kia đã
đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc.
Chứng nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông
có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya
để tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường, Văn Cao chợt rùng
mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suýt nữa
làm ông co cẳng ù té chạy…
Suốt một đời Văn Cao không
chạy thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ
sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng. Đành thu bóng lại
như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn
năn hối cải về tội chống đảng của mình.
Đâu rồi chàng trai Văn Cao
yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng miền thiên giới, thần
tiên sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời góc bể trong những
ca khúc tiền chiến tuyệt tác ? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu
của trang thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “ Buồn tàn thu” :
Buồn Tàn Thu
Ai lướt đi ngoài sương gió,
Không dừng chân đến em bẽ bàng, Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng,
Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em
ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng. Người ơi còn biết em nhớ
mong, Tình xưa còn đó xa xôi lòng. Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên Chim
với gió bay về, chàng quên hết lời thề. Áo đan hết rồi, cố quên dáng người,
Chàng ngày nào tìm đến? Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa Nhưng năm tháng qua dần,
mùa thu chết bao lần. Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.
“Buồn tàn thu” một nỗi
buồn đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình
yêu “ em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải
huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “
Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân
vương “ Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu
chết “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “
người lên ngựa, kẻ chia bào” của “ bụi hồng dặm cuốn chinh an”…
Cái buồn của con người gặp
cái buồn của trời đất, rất “ mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên
16 tuổi đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm
chiếc diều của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày mình vào
mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm nghỉm để bất tử
trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó
linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu…
Ngay từ 16 tuổi, bằng sự
lãng mạn tận cùng qua “ Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào
vương quốc Cái – Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống
nuôi dưỡng những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam
thuở ban đầu trong năm kiệt tác vô song :” Buồn tàn thu”, “ Suối mơ”, “ Bến
xuân” ( lời Phạm Duy) “ Trương Chi” và “ Thiên Thai”…
Dường như năm bản nhạc lãng
mạn trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục
để được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà
bất tử với thương yêu ? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái – Đẹp ban sơ được hát
lên cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc
rách mê ly chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo
rắt thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men
say của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con
người bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng ?
Chừng như Văn Cao đã ngầm
ký gửi thân phận mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ
bí, huyền nhiệm : “ Thiên thai” và “ Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang,
nền nã, cổ điển của nghệ thuật Apollon – thần ánh sáng và thi ca, vừa
mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos – thần rượu
nho ( theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche) ?
Văn Cao, ngay từ độ đôi
mươi, đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “ Thiên Thai”.
Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đã có ba
chàng : người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy chính là Văn Cao
:
Tiếng ai hát chiều nay vang
lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng rung cánh đào
rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên
Thiên Thai chốn đây Hoa
Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Đèn soi trăng êm nhạc lắng
tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh trăng xanh
mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng
phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn
quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên
Văn Cao và hai chàng Lưu
Nguyễn đã nhập “ Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi
nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ,
vì nó là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao
sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những
thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác… do con
đò của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới.
Những giai điệu thần tiên
mê ly hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lãng tử Lưu – Nguyễn
– Văn vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở
đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức…
Văn Cao hóa thân vào bi
kịch nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời
Văn Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu
du dương chìm lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một
mình có thể nổi da gà :
Một chiều xưa trăng nước
chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Lòng chiều bơ vơ lúc thu
vừa sang,
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn.
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn.
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe
tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa sông
vắng.
Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền anh đã chìm đâu!
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền anh đã chìm đâu!
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha
thiết,
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa thu.
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa thu.
Ngoài song mưa rơi trên bao
cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than,
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than,
Cùng với tiếng gió vương,
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Còn nghe như ai nức nở và than,
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than,
Cùng với tiếng gió vương,
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Đò ơi! Đêm nay dòng sông
Thương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên giang đầu.
Người ra đi với cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền Trương Chi?
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên giang đầu.
Người ra đi với cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền Trương Chi?
Bi kịch Trương Chi chính là
bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và
thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ…Hình như Văn Cao đã đổi vai cho chàng
ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm tình, được kể lại bằng hồn
Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca ?
Hồn Trương Chi u uẩn, u u
trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ
nương ân hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập
vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của
người nghe nhạc hôm nay.
Thương thay chàng Trương
Chi Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình yêu con người,
cho tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu : “ Hỡi xuân hồng
ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị”
Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời .
Nàng Mỵ Nương cuộc đời,
nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và
ca hát như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi điều kiện, phi
chính trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương – Thời đại
phụ tình, hớp hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng
chiến bất hủ : “ Trường ca Sông Lô”, trong “ Tiến quân ca”, trong “ Làng tôi”,
trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “ Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật
thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108
Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng ( ở tù tại gia mà phải thuê a ?)…
Trương Chi đã yêu, đã chết
cho mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành
đá quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình thành sông. Văn Cao
không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như Trương Chi; nhưng
linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời yêu thương đón
nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên dòng sông âm
nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế
được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho chàng
Trương Chi – Văn Cao :
“Nàng ơi / tất nhiên là
nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả vì
tôi kiêu hãnh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im lìm qua khe
chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng
bao giờ nhà thơ ( nhạc sĩ – chua thêm TMH) đến nữa …” ( bản dịch từ
tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)
Tiền bối Văn Cao ơi !
Âm nhạc sang trọng bậc nhất
nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang
đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một
cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi
chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi
thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông :
ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc.
Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng,
cao cả này mà thôi .,.
Sài Gòn ngày 23-01-2013
Trần Mạnh Hảo
Phần chú thích :
Chú thích <*1*> :
“Tố Hữu ấy à? Không, không
phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có
làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy
lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì
nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì
thế đấy – Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn
– Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu
tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche (tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành
dài, ý nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng tác ra vụ Nhân văn – Giai phẩm. Để chạy
tội Cải
cách ruộng đất. Để tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính
Longue Marche chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp!
Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy
nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất
lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế – bất cần đời. Đôi lúc cũng
có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp.
Mình nói với Longue Marche: “Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà
bắt bằng tay, từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả
vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn
nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!” Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường
Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải
hiểu – tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá!
Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.
Chú thích <*2*> :
“Những tư tưởng Nhân
văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn
trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc
độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc
nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu,
thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (…)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (…)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (…)
Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan…
… Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, hay như bài “Ngoại ô mùa đông 46″ (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
…
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (…)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (…)
Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (…)
Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!” (Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (…)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (…)
Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan…
… Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, hay như bài “Ngoại ô mùa đông 46″ (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
…
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (…)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (…)
Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (…)
Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!” (Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
Chú thích <*3*> :
Được đăng bởi
nguyentrongtao.info
và VANDANVIET.COM
và VANDANVIET.COM
NTT: Nhà văn Lê Hoài Nguyên
tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo
giõi văn nghệ sĩ và văn hóa) đã gửi tới NTT.ORG một chuyên luận dài về Nhân Văn
Giai Phẩm, và chúng tôi đã đăng làm 5 kỳ từ đầu tháng 8/2010, được nhiều trang
mạng đăng lại. Nay tác giả đã chỉnh sửa lại bài viết của mình và nhờ NTT.ORG
đăng lại trọn vẹn bài viết này. Các bạn hãy đọc nó như đọc một “góc nhìn” về sự
thật.
VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH
VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH
LÊ HOÀI NGUYÊN
Xin trích một số đoạn trong
tài liệu này, để chứng minh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm 1955 -1958 chỉ
là một trào lưu tìm dân chủ, tìm tự do cho văn học nghệ thuật, không hề mang
tính phản động, lật đổ chế độ như chính quyền cộng sản đã vu cáo, để đàn áp các
đồng chí của Văn Cao một cách khốc liệt, như từng xảy ra mà đại tá công
an A 25 Thái Kế Toại đã chứng minh và kết luận một cách khoa học, thấu tình đạt
lý, khiến kẻ viết bài này miễn bình luận :
“Tác giả ( tức đại tá công
an A 25 Thái Kế Toại) tin rằng Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP) không phải là một vụ
án gián điêp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ
chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng
ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một
đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo…
…Còn vụ án được đem xét xử
công khai có thể nói đấy là một vụ án xử vì mục đích chính trị chưa đủ chứng cứ
cấu thành tội danh hoạt động gián điệp mà động cơ của nó có thể có sự lợi dụng
để khuất lấp tai tiếng và bảo vệ vị trí của chính những người lãnh đạo Đảng đã
mắc sai lầm trong CCRĐ
…Nội dung bản án kết tội
NVGP trong phiên xử án như sau:
“Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành,hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc…”
“Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành,hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc…”
…- Nhà nước cộng sản huy
động hầu hêt các phương tiện thông tin đại chúng của chính quyền tham gia phê phán.
Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp chí Học Tập, Tạp chí Văn Nghệ,
Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân Đội, Tạp chí Điện Ảnh… Đặc
trưng của các cơ quan ngôn luận cộng sản là chỉ cho phép sự phê bình chính
thống, không cho phép người bị phê bình được nói lại…
…-Huy động các cơ quan quản
lý trí thức, văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê bình đấu tố những
người tham gia NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự thú tội để công
khai hóa trên các phương tiện tuyên truyền…
…-Sử dụng các biện pháp
nghiệp vụ của hệ thống công an để bắt bớ, đàn áp…
…-Sử dụng các biện pháp
quản lý hành chính như khai trừ Đảng, khai trừ BCH khai trừ hội viên các hội
VHNT, treo bút không cho xuất bản tác phẩm có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cách
chức, chuyển công tác, hạ lương, đưa ra khỏi biên chế, bắt buộc cư trú ở những
vùng xa Hà Nội, đưa đi cải tạo bằng lao động chân tay ở nông trường, nhà máy,
hợp tác xã nông nghiệp…
…- Ngoài ra gia đình các
đối tượng còn phải chịu sự đối xử khắc nghiêt của các cơ quan quản lý xã hội và
toàn xã hội như việc học hành, thi cử, phân công công tác, lấy vợ lấy chồng…
…Đáng lẽ có những hình thức
kỷ luật chỉ có thời hạn vài ba năm nhưng cuối cùng kéo dài cho tới thời kỳ đổi
mới. Các đối tượng hết hạn tù và quản chế đang là công dân bình thường nhưng
vẫn bị quản lý như người mất quyền công dân…
Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm…
Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm…
…Năm 1958 là năm đen tối
của họ (NVGP), bị đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao động…
…Trong thời gian này Hồ Chí
Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh, chứng
kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu . Việt
Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách
của Trung Quốc…
… Bản thân Trường Chinh
cũng không thể đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP vì ông ta không còn đầy
đủ quyền lực như trước nữa…
…Phải nói rằng ngôn ngữ văn
học miền Nam đã đi trước hiện đại hóa so với ngôn ngữ văn học miền Bắc mấy chục
năm. Phải chăng đó là hậu quả của việc thủ tiêu cuộc cách mạng văn học của
NVGP?”
(hết trích bài của đại tá
công an A 25 Thái Kế Toại)
No comments:
Post a Comment